Lịch Sử Phát Triển Xã Nam Điền
CHƯƠNG I
NAM ĐIỀN- MẢNH ĐẤT CON NGƯỜI
1- Đặc điểm tự nhiên và xã
hội
Nam
Điền là một xã ven biển nằm ở phía Tây Nam
huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam
Định. Do điều kiện tự nhiên luôn đứng nơi đầu sóng ngọn gió nên Nam
Điền có vị trí địa - chiến lược đặc biệt quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phía Bắc của xã giáp thị trấn Rạng Đông- được phân cách bởi đê
58; phía Đông giáp khu vực đầm Đông Nam Điền rộng 680 ha của huyện Nghĩa Hưng;
phía Tây giáp sông Đáy, bên kia sông là huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; phía Nam
giáp khu vực đầm Cồn Xanh, phía ngoài là bãi bồi Biển Đông rộng hàng vạn ha
thuận lợi cho việc khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản. Nhìn trên bản
đồ xã Nam
Điền như một hình chữ nhật với hệ thống đường lớn, nhỏ, sông ngòi, kênh mương
được quy hoạch vuông vức như những ô bàn cờ. Chiều dài của xã từ Đông sang Tây
là 5,2km; chiều rộng từ Bắc xuống Nam là 1,4km. Diện tích hành chính
của xã là 720,23ha, được quy hoạch thành 3 khu rõ rệt: khu dân cư, khu sản xuất
nông nghiệp và khu nuôi trồng thủy sản.
Xã Nam Điền được
bao bọc bởi tuyến đê biển với chiều dài 11,5km. Cụ thể là: đê 58 giáp ranh với
thị trấn Rạng Đông; tuyến đê biển chạy dài từ cống Nam Điền ra Cống Tiêu giáp
với khu nuôi trồng thủy sản Cồn Xanh; tuyến đê tả Đáy và tuyến đê giáp với khu
vực đầm Đông Nam Điền. Tuyến đê này vừa có chức năng ngăn nước mặn, chống chọi
bão lũ, bảo vệ cuộc sống, tài sản của nhân dân, vừa là tuyến đường giao thông
phục vụ sản xuất và đời sống dân cư.
Xã Nam Điền còn có
2 trục đường chính rất thuận tiện cho việc đi lại và lưu thông hàng hóa của
nhân dân. Đó là tuyến đường từ trụ sở UBND xã đến chợ Nam Điền dài 1,4 km và từ chợ Nam Điền chạy
theo chiều Đông –Tây ra tới đê tả Đáy, với chiều dài 4,0 km. Các phương tiện có
trọng tải dưới 10 tấn có thể lưu thông trên các tuyến đường này.
Hệ
thống đường dong thôn xóm được quy hoạch quy củ, cơ bản được bê tông hóa. Nam Điền còn là điểm cuối của Tỉnh lộ 490C
(đường 55 cũ) có lộ trình từ thành phố Nam
Định đến chợ Nam
Điền. Đây là tuyến đường huyết mạch của tỉnh Nam Định và huyện Nghĩa Hưng. Hàng
ngày có các chuyến xe khách khởi hành từ Nam Điền đến những thành phố như Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh hay xa hơn như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước,
Lâm Đồng…
Xã Nam Điền có hệ
thống kênh mương dày đặc, trong đó có 2 con kênh chính chạy song song theo
chiều Đông Tây. Một kênh bắt đầu từ khu vực trụ sở UBND xã đi qua cánh đồng
chạy ra Cống Tiêu. Đây là dòng ngăn cách giữa vùng nuôi trồng thủy sản và trồng
lúa. Kênh thứ hai chạy từ trạm bơm thuộc khu vực xóm 5 đi qua các xóm 6, 7, 8,
9 rồi rẽ trái chạy dọc đê tả Đáy đổ ra Cống Tiêu. Nối hai con kênh chính là hệ
thống mương cấp 2, cấp 3 thường xuyên được cải tạo, nâng cấp, thuận tiện cho
sản xuất nông nghiệp. Cống Tiêu nằm ở khu vực xóm 10 có nhiệm vụ chính là tiêu
nước và lấy nước ngọt từ sông Đáy để thau chua rửa mặn cho đồng ruộng. Khu vực
ngoài cửa cống là nơi neo đậu, trú ẩn, tránh bão an toàn của tàu thuyền. Mỗi
ngày có hàng trăm lượt tàu thuyền của ngư dân Nam Điền và các xã lân cận ra vào
bến để mua bán, trao đổi các loại hải sản, hàng tiêu dùng.
Con
sông Đáy cần mẫn đem phù sa bồi tụ cho khu vực bãi triều phía Nam của xã ngày
càng rộng ra, cao lên. Hiện nay khu vực bãi bồi phía Nam của xã có diện tích khoảng
10.000 ha là nơi trú ngụ của nhiều loài hải sản như vạng, tôm, cua, cá… Những
năm gần đây hoạt động khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản đã đem lại
nguồn thu lớn cho nhân dân địa phương, khẳng định được tiềm năng lợi thế của
vùng kinh tế biển.
Rừng
ngập mặn bãi bồi ven biển với diện tích hàng ngàn ha được phát triển tự nhiên,
cùng với sự hỗ trợ của Hội chữ thập đỏ Đan Mạch- ngày càng khẳng định vị trí
vai trò là phên dậu, bức tường thành trong việc ngăn chặn bão lũ, phòng chống
thiên tai cho nhân dân địa phương. Đây cũng là nơi cư trú của nhiều loại thủy
hải sản có giá trị kinh tế cao như ngao, vạng, tôm, cua, các loài cá, chim… Năm
2004 cùng với khu vực bãi bồi ven biển tỉnh Thái Bình, Ninh Bình; bãi bồi ven
biển Nghĩa Hưng- Nam Định được Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO)
công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới- với tên gọi Khu dự trữ sinh
quyển châu thổ sông Hồng.
Nằm
trong vùng đồng bằng sông Hồng nên khí hậu của Nam Điền chịu ảnh hưởng sâu sắc của
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Chế độ khí hậu phân hóa thành hai mùa rõ rệt: mùa
nắng trùng với mùa mưa, mùa lạnh khô hanh vào đầu mùa, ẩm ướt vào cuối mùa. Các
hiện tượng thời tiết đặc biệt là giông, bão, áp thấp nhiệt đới luôn xảy ra.
Trung bình hàng năm có 30- 50 ngày có giông. Những ngày có dông bão thường xuất
hiện mưa úng và lũ lụt trong nội đồng; sóng lớn và nước dâng ở vùng cửa sông và
bờ biển ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Đất đai
của Nam
Điền là đất phù sa, phì nhiêu màu mỡ thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhưng
phải cải tạo nhiều; chế độ nhật triều là một ưu thế lớn trong khai thác, đánh
bắt, nuôi trồng thủy hải sản của địa phương. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi
trên, do là xã ven biển nên Nam Điền thường xuyên bị nước mặn xâm lấn, hàng năm
đều phải đối mặt với những cơn bão nhiệt đới, trong đó có nhiều cơn bão mạnh
gây thiệt hại nặng nề về người và của cho nhân dân địa phương.
Từ buổi
đầu chỉ có 63 hộ xuống vùng kinh tế mới sinh sống chủ yếu ở ven đê 58 thì đến
nay Nam Điền đã có trên 1.800 hộ, với trên 7.500 khẩu, sinh sống ở 10 xóm, chia
làm 4 Ô. Dân cư tập trung đông đúc tại khu trung tâm từ xóm 1 đến xóm 5, từ xóm
6 đến xóm 10 dân cư chủ yếu sống ở ven trục đường liên xóm từ cầu trạm bơm xóm
6 ra đến Cống Tiêu xóm 10. Nhân dân theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và
Công giáo, trong đó đồng bào theo đạo Công giáo chiếm 45% dân số toàn xã. Cư
dân Nam
Điền là sự hội tụ của nhiều thành phần xã hội, địa phương khác nhau. Hiện nay
nhân dân Nam
Điền là người của 106 xã, 59 huyện, 24 tỉnh về đây quần tụ. Đặc điểm này đã tạo
cho Nam
Điền sự phong phú, đa dạng về phong tục, tập quán nhưng cũng tồn tại nhiều yếu
tố khó khăn cho công tác quản lý xã hội. Nghề sống chính của nhân dân là trồng
lúa, trồng màu, chăn nuôi gia súc gia cầm và đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản.
Trong đó, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản ngày càng phát triển, góp phần nâng
cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và tăng nguồn thu cho ngân sách địa
phương.
Những
ngày đầu khi khai hoang mở đất, cải tạo ruộng đồng người dân Nam Điền cần mẫn
đêm ngày theo thủy triều đi bắt cua,
cá, don, vọp… gồng gánh vào các xã trong đổi lấy gạo, mì, mắm, muối; khi thủy
triều ngập quá cổ lại về với công việc cải tạo những “Bãi chông, lau, sậy”
thành đồng ruộng; đắp đường khơi sông lấy nước thau chua rửa mặn và cầu mong
cho những dảnh mạ nếp nõn tre, mộc tuyền vươn lên cho bông, chắc hạt. Nhiều
người không chịu được cuộc sống cơ hàn cực khổ cả gia đình đã rời quê mới đi
nơi khác lập nghiệp. Những người ở lại chung sức đồng lòng, đoàn kết, chia sẻ
ngọt bùi, khắc phục khó khăn gian khổ, đối mặt liên tục với thiên nhiên khắc
nghiệt năm này qua năm khác để biến bãi hoang sình lầy thành đồng ruộng phì
nhiêu màu mỡ như ngày nay. Từ ngày đầu lập làng, lập xã nhân dân Nam Điền phải
sống ở túp lều tranh tạm bợ, không đường giao thông, không nước ngọt, không đèn
điện, chưa có trường học; trải qua bao năm tháng gian khổ vất vả, đến nay đời
sống vật chất và tinh thần của người dân đã được cải thiện đáng kể. Mỗi ngày
hàng ngàn học sinh được cắp sách đến trường ở các cấp học, ngành học. Các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng khắp. 100% số hộ đã
được sử dụng điện và nước sạch hợp vệ sinh. Các phương tiện, tiện nghi phục vụ
đời sống gia đình như xe máy, tivi, tủ lạnh…được nhân dân sắm sửa ngày càng
nhiều. Bộ mặt nông thôn mới được thay da đổi thịt từng ngày. Con đường trung
tâm từ trụ sở UBND xã chạy dọc lên chợ rồi chạy thẳng ra đê tả Đáy được nhựa
hóa tạo điều kiện thuận lợi cho dân sinh. Các công trình công cộng, phúc lợi
tập thể như Trụ sở Đảng ủy, HĐND, UBND; trường Mầm non, trường Tiểu học, Trung
học cơ sở; trạm y tế được xây dựng tương đối khang trang hiện đại. Ở trong các
khu dân cư đường dong thôn xóm được quy hoạch quy củ ngang dọc vuông vức, được
bê tông hóa với chiều rộng từ 1,2- 2 m phục vụ phát triển kinh tế- xã hội và
nhu cầu đi lại của nhân dân.
Hệ
thống chính trị của Nam Điền từ Chi bộ Hợp tác xã đầu tiên được thành lập (Chi
bộ HTX Nghĩa Điền) với 19 đồng chí đảng viên, đến nay Đảng bộ xã Nam Điền đã có
14 chi bộ với 124 đảng viên. Năm 2010, Đảng bộ được công nhận là Đảng bộ trong
sạch vững mạnh; 12/14 Chi bộ trong sạch vững mạnh. Chính quyền vững mạnh; MTTQ
và các đoàn thể của xã đều được công nhận đạt tiên tiến và tiên tiến xuất sắc;
100% thôn xóm đều có Ban công tác Mặt trận; các phân hội, chi hội, đoàn thể làm
tốt công tác vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
2- Quá trình hình thành xã Nam Điền.
Lịch sử
hình thành và phát triển của huyện Nghĩa Hưng gắn liền với quá trình quai đê
lấn biển, tạo lập xóm làng. Khởi đầu là công cuộc khẩn hoang do Nguyễn Công
Khanh - Thống đốc Tiền vệ chỉ huy đồn biển phía Nam phủ Nghĩa Hưng tổ chức vào
năm 1850 và đặc biệt công cuộc khai hoang lấn biển do Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị
tổ chức vào năm 1852 đã khai phá được một diện tích lớn đất sa bồi, thành lập
nên 11 đơn vị xã, thôn, trại mới. Năm 1931, nhân dân trong tỉnh Nam Định và
huyện Nghĩa Hưng đã tổ chức đắp đê Mễ Lâm (còn gọi là đê Cồn Vành) dài 17 km từ
thôn Thiên Bình (xã Nghĩa Bình) đến thôn Ngọc Lâm (xã Nghĩa Hải). Công trình
lớn nhất trong lịch sử lấn biển này đã đem lại cho huyện Nghĩa Hưng 8.000 mẫu
Bắc bộ (gần 3.000 ha) và thành lập thêm 7 xã với 32 thôn xóm.
Từ năm
1954 đến nay, công cuộc khai hoang lấn biển được đẩy mạnh và tiến hành theo chu
kỳ, cứ khoảng 10- 20 năm Đảng bộ và nhân dân huyện Nghĩa Hưng lại tiến ra biển
một lần. Năm 1957, tổ chức đắp đê lấn biển được 1.300 ha, trên cơ sở đó, ngày
19/5/1958, Nông trường quốc doanh Rạng Đông được thành lập. Tháng 3/1963, Nghĩa
Hưng tiếp tục tổ chức lực lượng đắp đê lấn biển khu vực phía đông Nông trường
Rạng Đông và phía nam Quần Vinh giáp cửa sông Ninh Cơ được 300 ha. Ngày
27/2/1965, xã Nghĩa Phúc được thành lập.
Ngày
30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Cùng với cả nước, nhân dân Nghĩa Hưng bước
vào thời kỳ cách mạng mới, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Quán
triệt tinh thần Nghị quyết 24 của BCH Trung ương Đảng (khóa III) “tích cực
chuẩn bị từng bước thực hiện việc phân công lại lao động trong phạm vi cả nước,
đưa một phần quan trọng lao động ở vùng đồng bằng đi xây dựng các vùng kinh tế
mới”; Công điện số 764-VP10 ngày 11/3/1975 của Thủ tướng Chính phủ “cho phép
được tiến hành khai hoang mở diện tích ở những vùng kinh tế mới và các nông
trường quốc doanh”; căn cứ vào điều kiện thực tế của khu vực bãi bồi huyện
Nghĩa Hưng, năm 1975, Tỉnh ủy và UBHC tỉnh Nam Hà có chủ trương quai đê lấn
biển, tận dụng đất đai địa phương xây dựng vùng kinh tế mới. Bãi bồi nằm ở phía
ngoài Nông trường Rạng Đông kéo dài từ cửa sông Nam Điền đến cửa sông Đáy (bãi bồi
Nghĩa Điền). Chiều dài trung bình 4km, chiều rộng trung bình 1,5km. Diện tích
khu vực khoảng 650 ha. Cao trình mặt bằng từ (+0,3m) đến (+0,9m). Địa chất thổ
nhưỡng đại đa số là đất thịt phù sa dày từ 20- 80cm, có khả năng khai thác để
trồng trọt và chăn nuôi.
Tháng
10/1975, UBHC tỉnh Nam Hà giao cho Ban xây dựng vùng kinh tế mới làm chủ quản
công trình (bên A) và lập tờ trình nhiệm vụ thiết kế trình Chính phủ phê duyệt.
Mặc dù nhiệm vụ thiết kế công trình chưa được phê duyệt nhưng do yêu cầu của
nhân dân huyện Nghĩa Hưng, ngày 01/11/1975, UBHC tỉnh Nam Hà đã ra lệnh khởi
công “công trình đắp đê lấn biển khai thác khu vực bãi bồi Nghĩa Điền huyện
Nghĩa Hưng”. Đê biển xuất phát từ dưới đê 58 (từ cửa sông Nam Điền) đến
cửa sông Đáy; chiều dài đê quai bao quanh khu vực là 6,57km.
Huyện
Nghĩa Hưng và công trường sau khi nhận đủ thủ tục của bên A đã đi ngay vào hoạt
động. Để thực hiện nhiệm vụ và trực tiếp chỉ huy công trình, tháng 10/1975,
Huyện ủy, UBHC huyện Nghĩa Hưng đã thành lập Ban chỉ huy công trường quai đê
lấn biển do đồng chí Lê Như- Ủy viên BCH Đảng bộ huyện làm Trưởng ban; đồng chí
Nguyễn Khuyến- Phó Ban kinh tế mới của huyện làm Phó Ban thường trực; đồng chí
Đoàn Hiệt làm Phó Ban. Đồng thời, Đảng bộ Ban chỉ huy công trường Nam Điền cũng
được thành lập do đồng chí Lê Như làm Bí thư Đảng bộ. Đảng bộ công trường Nam
Điền gồm 3 chi bộ: Chi bộ cụm Trung tâm do đồng chí Lại Ngọc Cận - nguyên Bí
thư Đảng ủy xã Nghĩa Lâm làm Bí thư; Chi bộ cụm Ấp Bắc do đồng chí Vũ Hồng Phong
- Nguyên Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Hòa (nay là thị trấn Quỹ Nhất) làm Bí thư; Chi
bộ cụm Nam Điền do đồng chí Lê Như- Bí thư Đảng bộ kiêm Bí thư Chi bộ.
Những
ngày đầu khởi công (từ tháng 11- 12/1975) mặc dù tiền, gạo chưa được Nhà nước
cấp vì thiết kế chưa được Chính phủ phê duyệt, nhưng do khí thế tiến công cách
mạng, UBHC huyện Nghĩa Hưng đã điều 2.000 đội viên đội thủy lợi ra công trường
làm nhiệm vụ. Với tinh thần nhiệt tình cách mạng và quyết tâm đắp đê lấn biển
mở rộng diện tích quê hương, các đội viên đã hăng hái lên đường, tự mang theo
lương thực, vật liệu để làm chỗ ở và các dụng cụ lao động. Ban chỉ huy công
trường đã nhanh chóng ổn định tổ chức, nơi ăn ở sinh hoạt và làm việc cho trên
40 cán bộ nhân viên đồng thời chỉ đạo xây dựng lán trại ổn định nơi ở cho 2.000
lao động. Sau 2 tháng triển khai, trên bãi biển mênh mông trước đây chỉ thấy
màu xanh của nước đã hiện lên những vệt đất chạy dài 2km nổi lên khỏi mặt nước,
báo hiệu ngày chiến thắng của đoàn quân đắp đê lấn biển.
Bước sang năm 1976, công trình quai đê lấn
biển gặp khó khăn rất lớn vì chưa nhận được sự đầu tư về vốn và lương thực của
Trung ương. Ngày 16/6/1976 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
273/TTg “phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế
công trình đắp đê lấn biển thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh”; đến khi
vấn đề lương thực và vốn được giải quyết thì nguồn nhân lực lại thiếu hụt
nghiêm trọng, đặc biệt là giai đoạn cuối khi chuẩn bị hạp long khép kín tuyến
đê. Dù vậy, Huyện ủy, UBND huyện Nghĩa Hưng đã thể hiện sự quyết tâm, tập trung
chỉ đạo, điều động trên 40 cán bộ của các ngành, các xã trong huyện xuống tham
gia công tác thi công tại công trường. Ban chỉ huy và Phòng kinh tế mới của
huyện ngày đêm có mặt ở công trường để chỉ huy đôn đốc công việc. Các đồng chí
Nguyễn Văn Khoan- Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phan Mạnh Tùng- Chủ tịch UBND huyện
xuống chỉ đạo trực tiếp hàng tuần và mỗi khi gặp khó khăn thường phải mở hội
nghị ngay tại chỗ để giải quyết các vấn đề về lương thực, tiền gạo, dụng cụ
phương tiện lao động.
Khó
khăn nối tiếp khó khăn nhưng với kinh nghiệm quai đê lấn biển trong gần 700 năm
tồn tại và phát triển, được tổ chức một cách khoa học và sự chỉ đạo thường
xuyên của Ban kinh tế mới tỉnh Hà Nam Ninh, BCH Đảng bộ huyện, UBND huyện Nghĩa
Hưng, Ban chỉ huy công trường, nhân dân Nghĩa Hưng đã phát huy cao độ tinh thần
hăng say lao động, biến khó khăn thành thuận lợi, tập trung tối đa mọi sức mạnh
để chinh phục thiên nhiên, “bắt sóng bạc phải cúi đầu, bắt biển sâu phải lùi
bước”, “biến biển sâu thành đồng ruộng”, hoàn thành nhiệm vụ quai đê lấn biển
xây dựng vùng kinh tế mới. Trong quá trình này, Đội thủy lợi 202 mà lực lượng
nòng cốt là các đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đóng vai trò mũi
nhọn xung kích đi đầu. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của BCH Đảng bộ huyện, cấp ủy
các cấp và Ban chỉ huy công trình, thanh niên Nghĩa Hưng đã phát huy được chủ
nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu sang lao động xây dựng đất nước với
tinh thần lao động quên mình, không ngại gian khổ hy sinh, bám biển, bám thuyền,
vật lộn với biển trời sóng gió, lăn lộn ngày đêm để mỗi người có thêm được một
mét khối đất, làm cho con đê ngày một dài thêm. Huyện giao chỉ tiêu lao động cụ
thể cho tất cả các xã nhưng nhiều xã có tới 2- 3 đội thủy lợi 202 tham gia,
trong đó có các đơn vị tiêu biểu như: Đội 202 xã Nghĩa Lâm- Đơn vị đã được Đảng
và Nhà nước trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lao động, tuyên dương năm 1985;
đội thuỷ lợi 202 xã Nghĩa Minh, Nghĩa Lợi, Nghĩa Hùng, Nghĩa Châu… hàng ngày
vượt từ 150 - 200% định mức khối lượng đào đắp. Nhiều xã còn bỏ ra hàng chục
nghìn đồng để mua nguyên vật liệu, đầu tư phương tiện làm lán trại, nhà ở cho
dân công. Những tấm gương sáng tiêu biểu cho 17.000 cán bộ đoàn viên tham gia
lao động trên công trường quai đê lấn biển là: Tống Thị Nhầm, Trịnh Văn Trình,
Trịnh Tác, Trịnh Thị Bài... Công trường quai đê lấn biển Nam Điền có sự tham
gia của 49 Đội thủy lợi 202, thường xuyên có từ 2.000 - 3.000 lao động, lúc tập
trung cao điểm tới 5.000- 6.000 người, được chia thành 3 cụm: Cụm 1- cụm Nam Điền
gồm các xã: Nghĩa Thắng, Nghĩa Lợi, Nghĩa Thành, Nghĩa Bình, Nghĩa Tân, Nghĩa
Phúc, thị trấn Rạng Đông. Cụm 2- cụm Trung tâm gồm các xã: Nghĩa Hòa, Nghĩa
Thái, Nghĩa Thịnh, Hoàng Nam, Nghĩa Minh, Nghĩa Châu, Nghĩa Đồng, Nghĩa Hiệp,
Nghĩa Trung. Cụm 3- cụm Ấp Bắc gồm các xã: Nghĩa Sơn, Nghĩa Lạc, Nghĩa Hồng,
Nghĩa Phong, Nghĩa Phú, Nghĩa Hải, Nghĩa Hùng, Nghĩa Lâm.
Trải
qua gần hai năm phấn đấu khắc phục khó khăn gian khổ, chống đỡ mưa to, gió lớn,
sóng biển, thời tiết khi nắng rát, khi rét buốt, điều kiện ăn ở, sinh hoạt đi
lại vô cùng thiếu thốn, gian nan nhưng dưới sự quyết tâm lãnh đạo của BCH Đảng
bộ huyện, UBND huyện với hàng triệu ngày công lao động của nhân dân, đến tháng
3/1977, toàn bộ diện tích 650 ha theo quyết định phê chuẩn của Thủ tướng Chính
phủ đã hoàn thành khối lượng đào đắp, được quai đê ngăn nước bao bọc và phân thành
các vùng nhỏ. Ngày 01/4/1977, Ban Thường vụ Huyện ủy Nghĩa Hưng đã ban hành Chỉ
thị số 02-CT/HU “về việc mở chiến dịch hạp long đê Nam Điền”, quyết định mở chiến
dịch “Hạp long hoàn chỉnh Ô1 công trường Nam Điền trước ngày 20/4/1977, tiếp tục
tiến công Ô2 và mở rộng thêm diện tích về phía đông”. Với tinh thần “Toàn Đảng
ra tay, toàn dân đứng dậy, quyết biến khó khăn thành thuận lợi, ra đi là mang
chiến thắng trở về”, việc hạp long đê Nam Điền đã được thực hiện thành
công. Diện tích của huyện Nghĩa Hưng được mở rộng thêm 650 ha (theo Quyết định
số 273/TTg ngày 16/6/1976 của Thủ tướng Chính phủ “phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế
công trình đắp đê lấn biển thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh”). Con đê
được hoàn thành với tổng chiều dài là 6,57km. Theo đề nghị của UBND tỉnh Hà Nam
Ninh, ngày 27/3/1978, Bộ trưởng Phủ thủ tướng đã ban hành Quyết định số 51-BT
“về việc hợp nhất một số xã thuộc các huyện Nam Ninh, Kim Sơn và Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam Ninh và thành lập xã Nam Điền huyện Nghĩa Hưng cùng tỉnh”. Xã Nam Điền
là đơn vị hành chính thứ 25 của huyện Nghĩa Hưng. Thành quả lấn biển Nam Điền
đã tô thắm thêm truyền thống quai đê mở đất, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên
nhiên phải phục vụ cuộc sống con người của Đảng bộ và nhân dân huyện Nghĩa Hưng
nói riêng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định nói chung.
CHƯƠNG
II
ĐẢNG BỘ
XÃ NAM ĐIỀN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG (1977- 1985)
Quá
trình hình thành làng xóm ở Nam Điền cũng như bao làng quê khác của huyện Nghĩa
Hưng, không phải chỉ đắp đê mà điều quan trọng hơn là cải tạo, khai hoang đồng
ruộng vì đặc điểm của các bãi bồi ven biển là bị nhiễm mặn, sông lạch tự nhiên
nhiều, đất đai lầy lội và là nơi sinh sôi nảy nở của các loài cây hoang dại như
lau sậy, năn lác. Do đó, năm 1977, sau khi hoàn thành việc quai đê, UBND tỉnh
Hà Nam Ninh đã ban hành Quyết định số 383-QĐ ngày 24/4/1977, giao nhiệm vụ cho
UBND huyện Nghĩa Hưng tổ chức lực lượng để khởi công ngay việc nạo vét, đảm bảo
tiêu úng và bảo vệ đê Nam Điền mới đắp; Quyết định số 601-QĐ ngày 28/7/1977 cho
phép UBND huyện Nghĩa Hưng khởi công các công trình nội đồng thuộc tiểu vùng
kinh tế mới Nghĩa Điền. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; UBND huyện
Nghĩa Hưng đã thành lập Ban chỉ huy thiết kế công trình nội đồng gồm 7 đồng
chí, trong đó đồng chí Trần Văn Thai là Trưởng ban, đồng chí Nguyễn Văn Phức là
Phó ban, đồng chí Trần Văn Thiều là Kế toán trưởng. Nhiệm vụ của Ban là tổ
chức, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện việc đưa lao động, nhân dân đến khai hoang
kiến thiết đồng ruộng, xây dựng khu dân cư, vùng sản xuất.
Ngày
5/5/1977, UBND huyện Nghĩa Hưng ban hành Quyết định số 60/QĐ, về việc “thành
lập một HTX sản xuất nông nghiệp tại tiểu vùng kinh tế mới Nghĩa Điền, lấy tên
là HTX Nghĩa Điền”. “Nhiệm vụ HTX là trồng cói kết hợp chăn nuôi, chế biến cói,
ngoài ra khai thác các mặt sản xuất khác. Hợp tác xã Nghĩa Điền chịu sự chỉ đạo
toàn diện của huyện Nghĩa Hưng, là đơn vị trực thuộc của Phòng kinh tế mới
huyện, có con dấu và tài khoản riêng; được ký kết hợp đồng và giao dịch trong
phạm vi nhiệm vụ được giao”. Ban quản trị HTX Nghĩa Điền gồm 7 đồng chí, trong
đó đồng chí Trần Văn Thai- nguyên cán bộ Đội Công trình Đội Thủy lợi huyện làm Chủ
nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Phức- nguyên Phó Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Sơn làm Phó
Chủ nhiệm, đồng chí Vũ Quang Thiều- cán bộ tài chính làm Kế toán trưởng và các
đồng chí Lại Ngọc Cận, Trịnh Thị Bồng, Trần Văn Cam, Bùi Quang Tuấn là ủy viên.
Đến
ngày 27/5/1977, Huyện ủy, UBND huyện Nghĩa Hưng đã tổ chức đưa 63 hộ dân từ các
nơi trong huyện xuống xây dựng vùng kinh tế mới mang tên HTX Nghĩa Điền. Đồng
chí Phan Mạnh Tùng- Chủ tịch UBND huyện đã trao lá cờ mang dòng chữ “Đoàn kết,
đại đoàn kết” cho đồng chí Trần Văn Thai- Chủ nhiệm HTX. Đây là những hộ dân
đầu tiên di cư xuống xây dựng vùng kinh tế mới Nghĩa Điền.
Để lãnh
đạo HTX Nghĩa Điền thực hiện nhiệm vụ, ngày 13/7/1977, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà
Nam Ninh ra Quyết nghị số 89-QN/TU về thành lập chi bộ HTX Nghĩa Điền trực
thuộc Huyện ủy Nghĩa Hưng. Chi bộ gồm 19 đồng chí, trong đó đồng chí Lại Ngọc
Cận là Bí thư chi bộ, đồng chí Trần Văn Thai là Phó Bí thư chi bộ và đồng chí
Nguyễn Văn Phức là Chi ủy viên.
Sau khi
được thành lập, tháng 9/1977 chi bộ tiến hành Đại hội chi bộ HTX Nghĩa Điền
nhiệm kỳ 1977- 1979. Đại hội đã bầu Ban chi ủy gồm 3 đồng chí. Đồng chí Lại
Ngọc Cận được bầu là Bí thư chi bộ, đồng chí Trần Văn Thai là Phó Bí thư chi bộ
và đồng chí Nguyễn Văn Phức là chi ủy viên. Nghị quyết Đại hội đã xác định
nhiệm vụ trọng tâm là: Chi bộ Đảng có nhiệm vụ tiếp nhận nhân dân xuống khai
hoang, tiếp nhận diện tích cói của các xã Nghĩa Lợi, Nghĩa Lâm, Nghĩa Hải,
Nghĩa Thành bàn giao lại và tham gia bảo vệ đê kè, tập trung làm thủy lợi nội
đồng, cải tạo đồng ruộng, lãnh đạo phát triển sản xuất đảm bảo đời sống. Khắc
phục khó khăn, mở rộng khai thác đánh bắt hải sản, phát triển chăn nuôi đảm bảo
cuộc sống cho nhân dân. Chuẩn bị các điều kiện để thành lập các tổ chức đoàn
thể chính trị xã hội.
Với phương châm “an cư lạc nghiệp”, cấp ủy đã xác định nhiệm vụ quan
trọng nhất lúc này là phải tìm mọi cách để xây dựng nhà ở, hoạch định khu dân
cư, ổn định cuộc sống nhân dân. 63 hộ dân đầu tiên xuống Nam Điền được
chia thành các tổ theo xã cũ; được bố trí định cư trên sườn đê 58 và dọc theo
đường sông Ấp Bắc của Nông trường quốc doanh Rạng Đông. Được cấp ủy Đảng quan
tâm chỉ đạo và Nhà nước hỗ trợ tiền vốn để mua vật liệu xây dựng nhà cửa (mức
hỗ trợ 720 đồng/hộ), trợ cấp lương thực nên đời sống nhân dân tương đối ổn
định. Ngoài ra, Hợp tác xã Nghĩa Điền còn được Nhà nước đầu tư tiền vốn để xây
dựng trụ sở làm việc, hệ thống cầu cống, kênh mương nội đồng đảm bảo yêu cầu
phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiêu biểu là công trình thanh niên 26/3/1978
tại khu kinh tế mới Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng đã huy động 3.000 thanh niên,
trong 5 ngày đã tập trung đào được một con mương dài 3km với 2.600 m3
đất.
Mặc dù
chưa thành lập đơn vị hành chính nhưng căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, chi bộ đã
xác định phải nhanh chóng thành lập và xây dựng các tổ chức đoàn thể. Tháng
7/1977, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Nam Điền được thành lập do đồng
chí Vũ Văn Giáo làm Bí thư, ngay sau khi được thành lập Đoàn thanh niên xã đã
hăng hái hưởng ứng thực hiện phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể”. Hội Phụ
nữ Nam
Điền được thành lập do đồng chí Trịnh Thị Bồng làm Hội trưởng. Đây là hai tổ
chức đoàn thể đầu tiên của Nam
Điền.
Được cọ
sát với thực tế, đội ngũ cán bộ, đảng viên của HTX Nghĩa Điền ngày một trưởng
thành cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong giai đoạn
cách mạng mới. Những nền móng đầu tiên của một xã mới dần dần được thiết lập.
Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã đề nghị Nhà nước cho thành
lập đơn vị hành chính mới trên vùng đất bãi bồi phía ngoài Nông trường quốc
doanh Rạng Đông. Ngày 27/3/1978, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng đã ban hành Quyết định
số: 51-BT về việc thành lập xã Nam
Điền huyện Nghĩa Hưng tỉnh Hà Nam Ninh. Đồng chí Trần Văn Thai là Chủ tịch UBND
xã, đồng chí Trần Văn Rật là Phó chủ tịch UBND xã. Từ đây, cùng với cấp ủy chi
bộ, chính quyền xã Nam
Điền trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ quê hương.
Sau khi
xã Nam Điền chính thức được thành lập, chi bộ Đảng và chính quyền xã đã nhanh
chóng bắt tay vào lãnh đạo củng cố, xây dựng các tổ chức đoàn thể chính trị- xã
hội nhằm huy động sức mạnh của quần chúng và phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của địa
phương. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ xã Nam Điền được
củng cố, kiện toàn lại. Ngay sau đó, Hội Phụ lão, Hội Nông dân và Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc xã Nam
Điền cũng được thành lập và đi vào hoạt động.
Cùng
với HTX Nông nghiệp, HTX Mua bán do đồng chí Trần Quốc Chính là Chủ nhiệm và
HTX Tín dụng do đồng chí Đoàn Văn Hợi là Chủ nhiệm cũng được thành lập để phục
vụ nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa của nhân dân.
Cuối
năm 1978, chi bộ xã Nam
Điền đã có 35 đảng viên chính thức. Trên cơ sở này, chi bộ xã làm tờ trình đề
nghị cấp trên cho thành lập Đảng bộ xã Nam Điền. Được sự nhất trí của Ban
Thường vụ Huyện ủy, ngày 07/02/1979, Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần
thứ hai được tổ chức. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 7 đồng chí. Đồng chí Lại Ngọc Cận được Ban Chấp
hành bầu là Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ; đồng chí Trần Văn Thai là Phó Bí thư-
Chủ tịch UBND xã; đồng chí Nguyễn Văn Phức là ủy viên Thường vụ Đảng ủy- Chủ
nhiệm HTX nông nghiệp. Ngay sau Đại hội thành lập Đảng bộ, căn cứ vào đặc điểm
địa bàn thôn xóm; Đảng bộ được tổ chức thành 5 chi bộ Đảng và kiện toàn chi uỷ,
ổn định đi vào nề nếp để lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa
phương và cơ sở. Ngày 11/7/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Quyết định số
07-QĐ/HU điều động đồng chí Lê Chuẩn - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện
Nghĩa Hưng khóa XV về làm Bí thư Đảng bộ xã Nam Điền; đồng chí Lại Ngọc Cận là
Phó Bí thư Đảng bộ - Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ. Tháng 8/1980, đồng chí Vũ Văn Giáo
được giao phụ trách công tác Đảng thay đồng chí Lại Ngọc Cận chuyển công tác về
Hội Nông dân tập thể Nghĩa Hưng.
Tại Đại
hội, các đại biểu đã chỉ rõ những thuận lợi của địa phương là: được sự lãnh
đạo, quan tâm trực tiếp của cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên; xã Nam Điền có
tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng cói phục vụ sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu và ngành nuôi trồng, khai thác thủy hải sản. Đồng thời,
Đại hội cũng chỉ ra những khó khăn trước mắt là: nền tảng kinh tế- xã hội hầu
như chưa có gì, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sinh hoạt và sản xuất quá thiếu
thốn, thành phần dân cư không đồng nhất, đây lại là địa bàn có vị trí chiến
lược, vừa là hậu phương vừa là tiền phương nên tình hình chính trị, trật tự xã
hội và an ninh quốc phòng rất phức tạp…
Từ đó, Nghị
quyết Đại hội đã xác định nhiệm vụ cụ thể trong những năm 1979- 1982 là: thành
lập các ban ngành và các đội sản xuất; tiếp nhận dân di cư đến; tổ chức khai
hoang cải tạo đồng ruộng, làm thủy lợi nội đồng và phát triển cây cói, đưa một
số diện tích ruộng khai hoang vào cấy lúa một vụ- vụ mùa; xây dựng trường học,
nhà trẻ, trạm xá để phục vụ nhu cầu của nhân dân; đảm bảo an ninh quốc phòng
vùng ven biển.
Ngày
13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100-CT/TW về “cải tiến
công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp”. Huyện uỷ- UBND huyện đã chỉ đạo: Đây là vấn đề
mới, có tác động đến nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
trong huyện, liên quan trực tiếp đến quan hệ sản xuất và đời sống nhân dân nên
cấp uỷ, chính quyền địa phương phải triển khai nghiêm túc các quy trình học
tập, quán triệt tinh thần chỉ đạo cho đảng viên; đồng thời giao nhiệm vụ cho
đảng viên trực tiếp vận động quần chúng nhân dân tại các khu dân cư học tập và
làm theo Chỉ thị. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm chỉ đạo đó, Đảng
bộ và chính quyền xã Nam
Điền đã nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện. Đảng uỷ chỉ đạo HTX nông
nghiệp tổ chức hội nghị xã viên để phổ biến những nội dung cơ bản Chỉ thị 100
của Ban Bí thư Trung ương và Nghị quyết của Đảng bộ về triển khai thực hiện Chỉ
thị khoán mới. Hội nghị đã thể hiện tinh thần phấn khởi, nhất trí thực hiện các
chính sách mới nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực của xã viên trong sản
xuất. Năm 1981, HTX nông nghiệp đã tiến hành giao ruộng khoán đến người lao
động, theo đúng các bước, đúng quy trình; phân rõ HTX đảm nhiệm 5 khâu, người
lao động thực hiện 3 khâu.
Thực
hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết của Đảng bộ, nhân
dân Nam Điền đã khắc phục mọi khó khăn về điều kiện tự nhiên, thời tiết, cơ sở
vật chất để đẩy mạnh sản xuất. Xác định yếu tố then chốt và quan trọng nhất
trong phát triển nông nghiệp là vấn đề thuỷ lợi; được sự hỗ trợ của Nhà nước và
để hưởng ứng chiến dịch Hà Nam Ninh toàn thắng; Đảng uỷ, Uỷ ban, Ban quản lý
hợp tác xã đã phát động phong trào ra quân làm thuỷ lợi sôi nổi. Từ năm 1979-
1982, xã Nam Điền đã được Nhà nước đầu tư 10.973.400 đồng với 650.000 ngày công
đào đắp được 72.700m3 sông tưới, sông tiêu, bờ vùng, bờ thửa và kênh
mương các loại. Tổ chức khai hoang phá sậy từ năm 1980 đến 1982 được 310 ha và xây lắp được hàng chục cống cấp 3
phục vụ cải tạo đồng ruộng, thau chua rửa mặn. Vì vậy, diện tích, năng suất và
sản lượng lúa ngày một tăng. Năm 1980, diện tích trồng lúa là 20,4 ha; năng
suất đạt 17,29 tạ/ha; sản lượng đạt 35,3 tấn. Năm 1981 là 40,6 ha; năng suất
đạt 19,75 tạ/ha; sản lượng đạt 80,2 tấn. Năm 1982 là 138 ha; năng suất đạt
19,76 tạ/ha; sản lượng thu hoạch đạt 272,6 tấn.
Là vùng kinh
tế mới, những năm 1978- 1982, tuy được Nhà nước trợ cấp lương thực nhưng Nam
Điền vẫn thuộc diện một trong những xã khó khăn nhất về lương thực của huyện
Nghĩa Hưng. Vì vậy, Đảng ủy, chính quyền và HTX đã xác định phải đẩy mạnh trồng
các loại cây rau màu, đặc biệt là cây lương thực thực phẩm như khoai lang, lạc,
đậu… Nhân dân tích cực hưởng ứng chủ trương của Đảng và chính quyền, tận dụng
đất vườn, đất bãi trồng được 30 ha cây rau màu, chủ yếu là cây khoai lang góp
phần không nhỏ giải quyết tình trạng thiếu lương thực, ổn định đời sống nhân
dân.
Để cải tạo đất
đai và tăng thu nhập cho xã viên, Đảng ủy, chính quyền chỉ đạo đưa cây cói vào
trồng ở diện tích mới khai hoang cả trong đồng và ngoài bãi. Từ năm 1979- 1982,
Nam
Điền đã trồng được 45 ha cói, sản lượng đạt 78 tấn.
Thực hiện Nghị
quyết ngày 15/01/1979 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nghĩa Hưng “về việc tăng
cường củng cố hoàn thiện tổ chức HTX nghề khai thác cá biển”; tháng 11/1979,
UBND huyện quyết định chuyển HTX cá Tiền Phong cho xã Nam Điền quản lý. Lúc này
HTX cá Tiền Phong có 40 hộ do đồng chí Trần Bá Dung là Chủ nhiệm và đồng chí
Trần Ngọc Tiên là Phó Chủ nhiệm. HTX cá Tiền Phong đã tiến hành củng cố, hoàn
thiện tổ chức HTX nghề cá theo hướng chuyên môn hóa; chỉ đạo chặt chẽ công tác
quản lý kinh tế, hạch toán kinh doanh thực hiện theo chế độ mới và tổ chức quản
lý những người làm nghề cá riêng lẻ.
Trong
hoàn cảnh khó khăn chung của cả nước sau chiến tranh và những khó khăn đặc thù
của một xã mới thành lập, cấp ủy Đảng và chính quyền xã Nam Điền vừa
phải lo tổ chức tốt đời sống cho nhân dân vừa phải lo xây dựng cơ sở hạ tầng
của địa phương. Dân di cư từ các xã trong huyện, trong tỉnh xuống Nam
Điền ngày một đông, số trẻ trong độ tuổi cần được đi học ngày một nhiều đã đặt
ra yêu cầu bức thiết phải thành lập trường tiểu học. Tháng 8/1978, Huyện ủy,
UBND huyện Nghĩa Hưng đã ban hành quyết định thành lập trường cấp I xã Nam Điền gồm 10
cán bộ, giáo viên. Hiệu trưởng nhà trường là thầy Phạm Ngọc Nhạ quê ở xã Nghĩa
Hải. Trường học đặt tại khu lán trại của các đội 202 quai đê lấn biển trước
đây. Lớp học là các lán trại của dân công. Năm học đầu tiên 1978- 1979, trường
có 9 lớp với tổng số 280 học sinh gồm 3 lớp 1; 2 lớp 2; 2 lớp 3 và 2 lớp 4.
Được sự
quan tâm của Đảng ủy, chính quyền, năm 1981, trường cấp I xã Nam Điền được
chuyển về khu mới, gần trụ sở Đảng ủy, UBND xã hiện nay. Cơ sở vật chất của nhà
trường còn rất khó khăn, thiếu thốn, mới chỉ có 5 phòng học, 1 văn phòng và 4
phòng tập thể cho giáo viên. Tổng số cán bộ, giáo viên của nhà trường là 15
người, thầy giáo Phạm Ngọc Nhưng là Hiệu trưởng nhà trường thay thầy Phạm Ngọc
Nhạ về nghỉ hưu. Năm học đầu tiên ở khu trường mới 1981- 1982, trường cấp I xã Nam Điền có 12
lớp và học sinh vẫn phải học ở 2 khu: 10 lớp ở khu trung tâm và 2 lớp ở Ô4.
Trường có 4 lớp 1; 3 lớp 2; 3 lớp 3; 2 lớp 4. Tuy nhiên độ tuổi của các học
sinh trong lớp còn chênh lệch rất lớn. Tình trạng học sinh bỏ học diễn ra
thường xuyên. Các thầy cô giáo được điều ra dạy học tại Nam Điền phần
lớn đều tận tụy, hết lòng vì học sinh nhưng cũng có một số người không vượt qua
được khó khăn thử thách đã bỏ nghề và chuyển đi nơi khác.
Để thực
hiện tốt các nhiệm vụ công tác quân sự địa phương và đảm bảo trật tự trị an
trên địa bàn góp phần bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân; cấp ủy, chính
quyền xã Nam Điền đặc biệt coi trọng xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân. Thực
hiện Nghị quyết số 02-NQ/HU ngày 28/6/1978 của Huyện ủy Nghĩa Hưng về “nhiệm vụ
xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng địa phương trong giai đoạn
mới”, năm 1979, lực lượng an ninh thường trực và lực lượng dân quân tự vệ xã Nam
Điền được thành lập do đồng chí Trần Đình Cư làm Xã đội trưởng. Đội dân quân tự
vệ gồm 36 đồng chí do đồng chí Nguyễn Thế Khang làm Tiểu đội trưởng và đồng chí
Đinh Văn Thêm làm Tiểu đội phó. Đội được trang bị 2 khẩu pháo 57 ly, 4 khẩu
pháo K50, 01 khẩu trung niên và 20 khẩu súng bộ binh. Đội đã tổ chức xây dựng
hầm hào, gồm 15 hầm chữ A, 200 hố cá nhân và 5 hầm trung niên để thực hiện
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Đây là lực lượng dân quân trực chiến, thường xuyên
liên kết với Đồn biên phòng 64 và lực lượng dân quân trực chiến xã Nghĩa Hải,
Nông trường quốc doanh Rạng Đông tổ chức tuần tra canh gác trên địa bàn toàn xã
và khu vực ven biển từ cửa sông Đáy tới khu bãi triều phía Đông Nam Điền. Đặc
biệt tháng 2/1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, công tác tuyên truyền,
bảo vệ an ninh phòng tuyến ven biển luôn được tập trung cao độ. Đảng ủy, chính quyền xã Nam Điền đã chỉ đạo toàn
dân hưởng ứng phong trào “hướng về tuyến đầu Tổ quốc” do huyện phát động; tập
trung tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ âm mưu của
các thế lực thù địch, coi trọng thế trận chiến tranh nhân dân; tổ chức xây dựng
phòng tuyến chiến đấu bảo vệ làng xã và xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu
gồm 1 đại đội dự bị động viên, 1 đại đội chiến đấu tại chỗ, 2 trung đội dân
quân cơ động, trang bị 2 khẩu pháo 57 ly do đồng chí Phạm Văn Cần là Trung đội
trưởng. Thực hiện Chỉ thị số 18- CT/HU, ngày 01/3/1979 của Ban Thường vụ Huyện
uỷ về một số nhiệm vụ cấp bách quốc phòng an ninh, Ban Công an xã cũng được
củng cố xây dựng, đảm bảo đủ số lượng và ngày càng được nâng cao về chất lượng.
Mặc dù
là xã được thành lập sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhưng Nam Điền lại
có rất đông đối tượng là bộ đội xuất ngũ phục viên về định cư sinh sống, trong
đó nhiều người là thương binh, bệnh binh trở về từ các chiến trường. Xuất phát
từ thực tế đó, cấp uỷ, chính quyền xã đã tiến hành rà soát, kiểm điểm, xem xét
lại việc thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người tham gia
kháng chiến và thân nhân, đồng thời tạo điều kiện về công việc giúp họ cải
thiện cuộc sống. Một số bộ đội phục viên là đảng viên, còn đủ sức khoẻ được sắp
xếp, bố trí công việc phù hợp để góp phần xây dựng quê hương.
Là một
Đảng bộ mới được thành lập, công tác xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy lãnh
đạo của Đảng, chính quyền luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Tháng 4/1979,
Đảng bộ đã lãnh đạo thành công cuộc bầu cử HĐND xã, bầu được 15 đại biểu HĐND,
là những người đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân. Sau cuộc bầu cử,
bộ máy lãnh đạo của UBND xã được kiện toàn, đồng chí Trần Văn Thai được bầu là
Chủ tịch UBND xã, đồng chí Trần Văn Rật là Phó Chủ tịch UBND xã. Bên cạnh nhiệm
vụ củng cố bộ máy cán bộ chủ chốt, Đảng bộ cũng không ngừng chăm lo bồi dưỡng
kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng. Đến cuối năm 1979, tổng số Đảng viên
của Đảng bộ xã Nam Điền là 43 đồng chí, trong đó có 65% là đảng viên tích cực.
Ngày
25/10/1982, Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ ba, nhiệm kỳ (1982- 1984) được tổ chức với sự tham dự của 52 đảng
viên thuộc 10 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành khóa III gồm 7 đồng chí.
Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu đồng chí Vũ Văn Giáo là Bí thư Ban Chấp hành Đảng
bộ; đồng chí Lê Ngọc Thành là Phó Bí thư- Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ; đồng chí
Hoàng Quốc Thịnh là Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ - Chủ tịch UBND xã.
Đại hội
đã tiến hành thảo luận, phân tích đánh giá những kết quả, thành tích của nhiệm
kỳ 1979- 1982, đồng thời chỉ ra những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân và biện
pháp khắc phục. Nghị quyết Đại hội xác định nhiệm vụ cụ thể của nhiệm kỳ 1982-
1984: Động viên nhân dân kiên trì bám đất, bám làng, tiếp tục khai hoang, san
lấp diện tích lau sậy, ao hồ tự nhiên, phấn đấu tăng diện tích đất nông nghiệp
lên 310 ha và đẩy mạnh sản xuất cây lương thực, cây công nghiệp, tổ chức cấp
đất quy hoạch khu dân cư cho HTX cá Tiền Phong và tổ chức Đại hội HTX cá Tiền
Phong lần thứ nhất.
Bước
vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ III, Nam Điền gặp rất nhiều
khó khăn, cụ thể là: phải khắc phục hậu quả của 2 cuộc chiến tranh biên giới
bảo vệ Tổ quốc, đất nước đang đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày
càng trầm trọng, tác động trực tiếp tới các địa phương nói chung Nghĩa Hưng và Nam
Điền nói riêng. Lương thực thiếu hụt, hàng tiêu dùng khan hiếm, tỷ lệ lạm phát
tăng cao tới ba con số. Nhà nước thực hiện chính sách cắt giảm chế độ bao cấp
nói chung, trong đó có xã Nam
Điền. Thêm vào đó, đây lại là thời kỳ đỉnh cao của việc di dân, những hộ mới di dân ra Nam Điền nhà
cửa hết sức tạm bợ, thổ ở chưa kịp vượt lập, cải tạo; sản xuất mới manh nha
phát triển; lương thực làm ra không đáp ứng đủ nhu cầu tại chỗ. Đời sống nhân
dân cực kỳ khó khăn, hầu hết phải sống cảnh “chạy ăn từng bữa”. Một số hộ dân,
trong đó có cả những đảng viên không chịu được gian khổ đã bỏ về quê hoặc đi
nơi khác làm ăn. Tình hình an ninh chính trị hết sức phức tạp, nạn trộm cắp
thường xuyên xảy ra vì nhiều đối tượng hình sự từ các nơi lánh về cư trú làm ăn
sinh sống. Mối quan hệ gắn kết trong Đảng bộ và trong quần chúng còn lỏng lẻo.
Phát
huy thành quả của nhiệm kỳ trước và hưởng ứng chủ trương "cả nước là một
công trường vĩ đại xây dựng chủ nghĩa xã hội”; nhất là thực hiện quan điểm chỉ
đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ “coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” toàn xã
lại dấy lên một phong trào thi đua lao động sản xuất, đồng loạt tiến quân vào
mặt trận sản xuất nông nghiệp. Công tác thuỷ lợi vẫn được quan tâm hàng đầu, tập
trung cao độ tu sửa hệ thống thuỷ lợi nội đồng, xây dựng thêm các cống cấp 3,
gia cố hệ thống đê biển. Từ năm 1983- 1985, Nam Điền đã được đầu tư 18.630.000
đồng với 1.230.000 ngày công đào đắp được 223.725 m3 hệ thống kênh
mương thủy lợi nội đồng, đường giao thông phục vụ sản xuất nông nghiệp và nhu
cầu đi lại của nhân dân.
Các
ngành kinh tế khác như hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng cũng có nhiều cố
gắng trong phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Với vị
trí một xã ven biển xung yếu nên công tác quốc phòng an ninh là một trong những
nhiệm vụ quan trọng được ưu tiên hàng đầu của cấp ủy, chính quyền xã Nam Điền. Lực
lượng quân sự địa phương được tăng cường xây dựng, thành lập 01 đại đội dự bị
động viên, 01 đại đội chiến đấu tại chỗ, 02 trung đội cơ động và 01 trung đội
hải đội HTX cá Tiền Phong được trang bị cơ bản, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu.
Việc đăng ký lực lượng dự bị động viên, khám tuyển và gọi thanh niên lên đường
nhập ngũ được thường xuyên đôn đốc. Hàng năm, Nam Điền luôn đảm bảo chỉ tiêu giao
quân. Tháng 2/1982, năm đầu tiên thực hiện Luật
nghĩa vụ quân sự Nam
Điền đã hoàn thành chỉ tiêu về số lượng và chất lượng giao quân đợt 1 được 12
đồng chí.
Nhiệm
vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội được thực hiện tốt. Các tệ nạn xã
hội đang có chiều hướng giảm. Không khí trong các thôn xóm bình yên, tạo điều
kiện để nhân dân yên tâm sản xuất và xây dựng cuộc sống mới.
Tháng 5/1984,
Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ IV, nhiệm kỳ (1984- 1986) đã được tổ chức với sự tham dự của 70
đảng viên của 11 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành khóa IV gồm 9 đồng
chí. Đồng chí Vũ Văn Giáo tiếp tục được BCH Đảng bộ tín nhiệm bầu làm Bí thư
Ban Chấp hành Đảng bộ; đồng chí Nguyễn Thế Khang là Ủy viên Thường vụ Thường
trực Đảng ủy – Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ; đồng chí Đoàn Văn Hiệt là Phó Bí thư-
Chủ tịch UBND xã. Đại hội đã đánh giá kết quả tình hình thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ xã lần thứ III và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của
nhiệm kỳ tới. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ (1984-1986) Nghị quyết
của Đại hội Đảng bộ chỉ rõ: tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức và hoạt động
của các hợp tác xã: HTX nông nghiệp, HTX cá, HTX tín dụng và HTX mua bán; trong
đó tập trung đổi mới nâng cao vai trò quản lý, điều hành thực hiện khoán quản
trong nông nghiệp; cải tạo khai hoang một số diện tích đất vùng trũng để trồng
lúa, khôi phục và phát triển cây cói đồng; vận động nhân dân tích cực làm thủy
lợi để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống giao thông thôn xóm, tích cực tham
gia phòng chống bão lũ bảo vệ đê điều, giữ xóm, giữ làng; giữ vững an ninh trật
tự trên địa bàn tuyến biển, thực hiện tốt phương án “chống trốn” (chống người
vượt biên) và chống xâm nhập; củng cố bộ máy lãnh đạo từ xã đến các thôn xóm,
nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo của các chi bộ cơ sở.
Giai
đoạn này đồng ruộng vẫn đang trong quá trình cải tạo, cây lúa chỉ trồng được
vào vụ mùa. Năng suất lúa chưa ổn định, sản lượng lương thực đạt thấp, không đủ
đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong xã. Nguồn sống chính của nhân dân Nam Điền chủ
yếu dựa vào nghề khai thác, đánh bắt thủy hải sản ven bờ và mua bán, trao đổi
lương thực với các xã khác trong huyện.
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần thứ IV và Nghị quyết số
19-NQ/TU ngày 01/11/1984 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam Ninh “về đẩy mạnh
giao đất, giao rừng, nhanh chóng phủ xanh đất trống, đồi trọc, phát triển sản
xuất, kinh doanh nông- lâm kết hợp”, từ 1984- 1986, Nam Điền đã trồng được 257
ha cói với tổng số vốn đầu tư là 142.353.000 đồng. Khai hoang được 60 ha ở giáp
đê 58 của Nông trường quốc doanh Rạng Đông đưa vào trồng lúa, nâng diện tích
lúa nên 110 ha. Vì vậy, đến giữa năm 1986, đời sống nhân dân đã có bước cải
thiện, cơ bản các hộ gia đình đã vượt lập được chỗ ở, tu sửa nhà cửa, tích cực
tăng gia sản xuất, yên tâm gắn bó với quê hương mới.
Bước
sang nhiệm kỳ 1984- 1986, dân số của Nam Điền dần dần ổn định, số học sinh đi
học mỗi năm một tăng, cơ sở vật chất trường học không đủ đáp ứng, thiếu phòng
học, nhà trường phải tổ chức cho học sinh học 3 ca. Mặt khác, Nam Điền chưa có
trường cấp II nên toàn bộ số học sinh hoàn thành chương trình cấp I phải vào
học tại trường cấp II Rạng Đông. Phương tiện đi lại không có, học sinh phải đi
bộ là chủ yếu, trong khi đường xá xa xôi, nắng thì cháy da, mưa thì lầy lội, vì
vậy tỷ lệ học sinh theo học lên cấp II rất thấp.
Người dân
Nam
Điền chủ yếu là các hộ nghèo, hộ khó khăn từ các xã trong huyện di cư đến,
trình độ dân trí nhìn chung thấp, nhận thức về chính trị, pháp luật hạn chế.
Phương tiện thông tin đại chúng thiếu thốn, nơi làm việc, trường học tạm bợ. Hệ
thống đường giao thông cơ bản đã được định hình nhưng là đường đất nên nắng thì
bụi, mưa thì lầy lội, đi lại vô cùng khó khăn. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ,
thể dục, thể thao hầu như chưa có; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân có
nhiều hạn chế.
Cùng
với phát triển kinh tế- xã hội, nhiệm vụ quốc phòng an ninh tiếp tục được đặc
biệt quan tâm. Đảng bộ quán triệt sâu sắc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Để nâng cao chất lượng của
công tác quốc phòng an ninh, Đảng uỷ đã chọn cấp uỷ viên, đảng viên là bộ đội
phục viên giữ các chức vụ xã đội, công an, giữ các vị trí chỉ huy trong lực
lượng dân quân du kích. Toàn bộ lực lượng vũ trang của xã thường xuyên được tổ
chức huấn luyện nên trình độ chiến đấu ngày càng nâng cao. Trong các đợt bắn
đạn thật đơn vị đều đạt loại khá và giỏi. Công tác tuyển quân các năm đều đạt
và vượt chỉ tiêu trên giao. Xã Nam Điền đã phối hợp chặt chẽ với đồn biên phòng
64 thực hiện tốt phương án chống người vượt biên và chống xâm nhập, đảm bảo giữ
vững an ninh chính trị của địa bàn tuyến biển.
Trong
những năm đầu mới thành lập, mặc dù dân cư chưa ổn định, thường xuyên tiếp nhận
thêm các hộ mới đến nhưng Đảng ủy, chính quyền xã Nam Điền đã lãnh đạo thực hiện tốt
công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Các tệ
nạn xã hội được phát hiện và xử lý kịp thời. Nhân dân đến định cư yên tâm khai
hoang, phát triển sản xuất ổn định cuộc sống.
Trải
qua gần 10 năm xây dựng và phát triển dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy,
UBND huyện Nghĩa Hưng, với tinh thần cố gắng, đoàn kết kiên cường; Đảng bộ và
nhân dân Nam Điền đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, giành được nhiều
thành quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Trong xây dựng và phát triển
kinh tế, Nam
Điền đã từng bước xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, các
hình thức tổ chức sản xuất được định hình rõ nét hơn. Đời sống nhân dân bước
đầu ổn định. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục- đào tạo dần dần được xây dựng;
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Vai trò lãnh đạo
của cấp ủy Đảng, chính quyền ngày càng được củng cố thêm vững mạnh.
Mặc dù
chông gai trước mắt vẫn còn nhiều nhưng với tinh thần tự lực tự cường và những
tiền đề cơ bản về kinh tế- chính trị, xã hội đã đạt được, Đảng bộ và nhân dân Nam
Điền cùng kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ trong các giai đoạn sau, xây dựng quê hương Nam Điền ngày càng
giàu đẹp.
CHƯƠNG III
ĐẢNG BỘ
XÃ NAM ĐIỀN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
THỰC HIỆN
ĐƯỜNG
LỐI ĐỔI MỚI, ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI,
AN NINH QUỐC PHÒNG (1986- 2000)
1- Nam Điền thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng (1986- 1990)
Trong
không khí phấn khởi thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến
tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tháng 9/1986, Đại hội Đảng
bộ xã Nam Điền lần thứ V (nhiệm kỳ 1986- 1988) đã được tổ chức thành công, Đại
hội có 69 Đảng viên tham dự thuộc 8 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành
khóa V gồm 9 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Giáo tiếp tục được BCH Đảng bộ bầu làm
Bí thư BCH Đảng bộ; đồng chí Đoàn Văn Hiệt là Phó Bí thư- Chủ tịch UBND xã;
đồng chí Nguyễn Thế Khang là Ủy viên Thường vụ Thường trực Đảng ủy- Chủ nhiệm
UBKT Đảng uỷ. Tháng 11/1986, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nam Điền khóa V được kiện toàn, 2
đồng chí cán bộ chủ chốt nghỉ công tác. Ban Thường vụ Huyện ủy có quyết định
điều động hai đồng chí lãnh đạo các ngành của huyện về tăng cường cho xã. Đồng
chí Phạm Văn Tý- HUV- Giám đốc Công ty Thủy nông (nay là Công ty TNHH một thành
viên khai thác công trình thủy lợi huyện) về tham gia BCH Đảng bộ xã và trực
tiếp làm Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ; đồng chí Trần Quốc Tư- Phó Văn phòng
Huyện ủy về tham gia BCH Đảng bộ và giữ chức vụ Chủ nhiệm HTX nông nghiệp. Đồng
chí Đoàn Công Thạo là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy- Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ, đồng
chí Nguyễn Thế Khang là Phó Bí thư- Chủ tịch UBND xã. Đến tháng 9/1988, đồng
chí Phạm Văn Tý được Huyện uỷ Nghĩa Hưng cử đi học tại trường Nguyễn Ái Quốc và
chuyển công tác về huyện, đồng chí Trần Quốc Tư - Đảng ủy viên- Chủ nhiệm HTX
nông nghiệp được bổ nhiệm làm Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ.
Đại hội
Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ V có một ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng. Đây là nhiệm kỳ đầu
tiên Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Xác định
được vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đó, Đại hội đã đánh giá trung thực, khách
quan những kết quả đã đạt được, đồng thời thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm,
tồn tại của Đảng bộ trong nhiệm kỳ IV. Trên cơ sở đó, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ xã Nam Điền lần thứ V đã xác định: toàn Đảng bộ phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm, bằng ý thức tự lực tự cường, năng động sáng tạo, vận dụng các nghị quyết
và chủ trương của Đảng vào thực tiễn của địa phương; động viên tinh thần lao
động sản xuất của cán bộ, đảng viên và nhân dân; dựa vào sức mình là chính,
khắc phục, vượt qua những khó khăn thử thách, đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời
sống nhân dân, tăng cường quốc phòng an ninh và các hoạt động xã hội.
Thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền có các
thuận lợi cơ bản. Đó là những tiền đề đã đạt được về kinh tế, chính trị và xã
hội trong gần 10 năm xây dựng và phát triển (từ 1978-1985); có sự quan tâm lãnh
đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, trực tiếp là Huyện ủy, UBND huyện Nghĩa Hưng.
Đặc biệt là những chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế- xã hội được đề
ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986). Đại
hội VI của Đảng đã khẳng định những thành tựu đạt được trong 10 năm qua, đồng
thời chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước như: tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí… Từ những nhận định và
đánh giá đó, Đại hội đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho việc đổi mới đất
nước toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị, an
ninh quốc phòng…, trong đó “điều quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách kinh
tế, chính sách xã hội” hướng tới mục tiêu cụ thể là “sản xuất đủ
tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát
triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến
tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh”
Bên
cạnh những yếu tố thuận lợi, Nam
Điền cũng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức cả chủ quan lẫn khách quan. Cuộc
khủng hoảng kinh tế- xã hội diễn ra ngày càng trầm trọng; thiên tai bão lụt
liên tiếp xảy ra; cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất quá thiếu
thốn và không đồng bộ; hệ thống thủy lợi chắp vá, đang trong quá trình vừa quy
hoạch vừa xây dựng; phần lớn đất đai phèn mặn chưa được cải tạo; ý thức của một
bộ phận cán bộ và nhân dân còn mang nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại; trình độ nhận
thức, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo còn nhiều hạn chế…
Tranh
thủ điều kiện, thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, hạn chế, với tinh thần tự
lực tự cường, đoàn kết, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Điền đã cố gắng vươn lên
thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Ngày
31/10/1988, Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ VI (nhiệm kỳ 1988- 1991) được tổ chức với sự tham dự của 67 đảng
viên của 9 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành khóa VI gồm 11 đồng chí.
Đồng chí Trần Quốc Tư được Ban Chấp hành bầu là Bí thư Đảng bộ, đồng chí Nguyễn
Thế Khang là Phó Bí thư- Chủ tịch UBND xã, đồng chí Đoàn Công Thạo là Ủy viên
Thường vụ Đảng ủy- Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ. Sau đó, đến tháng 9/1991, đồng chí
Trần Quốc Tư - Bí thư BCH Đảng bộ xã được Ban Thường vụ Huyện ủy điều động về
công tác tại Hội Nông dân huyện.
Đại hội
đã đánh giá kết quả và chỉ ra những hạn chế, tồn tại của nhiệm kỳ 1986- 1988,
đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thách thức, khai
thác tốt các tiềm năng sẵn có, phấn đấu ổn định tình hình chính trị, kinh tế xã
hội, an ninh quốc phòng của địa phương.
Bằng sự
quyết tâm và tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng cùng với những biện pháp
lãnh đạo sát đúng như: chuyển hướng sản xuất, tập trung phát triển cây lúa, cây
cói, cây rau màu các loại kết hợp với phát triển ngành nghề phụ trên cơ sở tận
dụng nguồn nguyên liệu sẵn có; ưu tiên đầu tư về thủy lợi, cải tạo mặt bằng
đồng ruộng, quy hoạch vùng mạ ổn định đáp ứng được từ 80-85% nhu cầu tại chỗ. Quán
triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo Nghị quyết số 19-NQ/HU của Ban Thường vụ
Huyện uỷ về “hoàn thiện một bước cơ chế quản lý trong nông nghiệp”, coi hộ gia
đình là đơn vị sản xuất, là hạt nhân kinh tế nông nghiệp, nông thôn; Nghị quyết
số 10-NQ/TW, ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
trong nông nghiệp”; Nghị quyết số 20- NQ/HU ngày 7/8/1988 của Ban Thường vụ
Huyện uỷ về “Thực hiện đổi mới kinh tế trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị
quyết số 10- NQ/TW của Bộ Chính trị”; vì vậy, trong 5 năm từ 1986- 1990, Đảng
bộ và nhân dân Nam Điền đã tổ chức khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động,
đất đai ở địa phương, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển tiến bộ rõ rệt, đồng
đều trên các lĩnh vực. Đất đai được giao khoán đến từng hộ, diện tích đất hoang
hoá được cải tạo đưa vào sử dụng, người lao động nhận khoán yên tâm sản xuất.
Trên lĩnh
vực trồng trọt, diện tích, năng suất và sản lượng lúa tăng dần qua từng năm.
Năm 1986, diện tích lúa cả năm đạt 133,56 ha; năng suất đạt 28,3 tạ/ha/năm; sản
lượng đạt 189 tấn. Đến năm 1990, diện tích lúa tăng lên 263 ha (tăng 2 lần so
với năm 1986); năng suất đạt 43,3 tạ/ha/năm (tăng 1,5 lần so với năm 1986); sản
lượng lúa cả năm đạt 568,8 tấn (tăng hơn 3 lần).
Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, bình quân lương thực quy thóc trên
đầu người cũng được tăng lên: năm 1986 đạt 158 kg/người/năm; năm 1988 là 245
kg/người/năm, đến năm 1990 đạt 300 kg/người/năm (tăng xấp xỉ 2 lần so với năm
1986).
Từ
1986- 1988, thực hiện đề án quy hoạch xã Nam Điền thành vùng chuyên sản xuất
cói nên sản xuất cói được giữ vững, ổn định và phát triển. Tổng diện tích trồng
cói 2 năm 1986 và 1987 đạt 61,5 ha, đến năm 1988 diện tích trồng cói tăng lên
116,8 ha (gấp 1,9 lần so với tổng diện tích 2 năm 1986 và 1987). Sang những năm
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do bị tác động của một số yếu tố như: đặc điểm về
địa lý, thời tiết không thuận lợi; chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu lâm
vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, thị trường tiêu thụ hàng nông sản, hàng thủ
công truyền thống của nước ta gặp khó khăn. Hiệu quả kinh tế từ trồng cói và
sản xuất các mặt hàng thủ công nghiêp từ cây cói đạt thấp; mặt khác sản xuất
trong thời kỳ này lại đang hướng vào mục tiêu đảm bảo sản xuất đủ lương thực
phục vụ nhu cầu tại chỗ, vì vậy Đảng bộ đã chỉ đạo chuyển toàn bộ diện tích
trồng cói trong đồng sang trồng lúa. Diện tích cói năm 1990 chỉ còn 20 ha (giảm
96,8 ha so với năm 1988).
Thực
hiện phương châm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền là “lấy ngắn nuôi dài”, nhân
dân đã tích cực tham gia phong trào “Tăng gia sản xuất”, tận dụng các diện tích
đất gò bãi cao, đất vườn gia đình để trồng các loại cây lương thực ngắn ngày
như ngô, khoai, rau đậu… Diện tích và sản lượng cây màu tăng đều trong các năm
từ 1986- 1990, trong đó năm 1988 diện tích cây rau màu tăng mạnh nhất, đạt 45
ha, tăng 14,4 ha ( = 1,5 lần) so với năm 1986.
Sản
xuất cây màu lương thực phát triển đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu
lương thực trong những tháng giáp hạt, nâng cao đời sống nhân dân và cung cấp
nguồn thức ăn dồi dào thúc đẩy ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển. Năm
1988 đàn trâu có 113 con, năm 1990 tăng lên 225 con. Đàn lợn được giữ vững và tăng
trưởng nhanh, năm 1988 là 750 con, trọng lượng xuất chuồng bình quân đạt
60-65kg/con. Năm 1990 đàn lợn tăng lên 950 con, trọng lượng xuất chuồng bình
quân đạt 65-68 kg. Tổng đàn gia cầm trong các năm 1989- 1990 bình quân đạt
10.000 con.
Trong
thời gian từ 1986- 1988, sản lượng khai thác thủy hải sản đạt được chủ yếu tập
trung ở các hộ tư nhân. Hoạt động của HTX cá Tiền Phong bị trì trệ, chỉ đạt từ
20- 30% sản lượng so với kế hoạch và không đáp ứng được yêu cầu đối lưu lương
thực. Thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 20/3/1989 của Ban Thường vụ Huyện
uỷ “về khai thác tiềm năng kinh tế biển”, Đảng bộ đã chỉ đạo phải tổ chức lại
ngành khai thác kinh tế biển, trong đó củng cố lại HTX cá Tiền Phong là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Tháng 8/1988, HTX cá Tiền Phong bắt đầu đi vào xây
dựng, củng cố tổ chức bộ máy quản lý HTX và phương thức hoạt động. Vì vậy,
trong hai năm 1989- 1990, HTX cá Tiền Phong đã cơ bản thoát khỏi tình trạng trì
trệ, hoạt động có hiệu quả, luôn hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước
giao và đảm bảo cuộc sống ổn định cho xã viên, đã được tỉnh tặng hai bằng khen.
Đến năm 1990, do yêu cầu của công cuộc đổi mới và chủ trương chung của Nhà nước
là xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, HTX cá Tiền Phong và HTX nông
nghiệp Nghĩa Điền được sáp nhập thành HTX nông nghiệp Nam Điền.
Là một
xã nơi đầu sóng ngọn gió nên việc trồng rừng phòng hộ và rừng ngập mặn để bảo
vệ làng xóm, bảo vệ sản xuất cũng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng ủy, chính
quyền và nhân dân Nam
Điền. Các phong trào “Trồng cây gây rừng”, “Tết trồng cây” được nhân dân đồng
tình hưởng ứng. Trong hai năm 1989- 1990, toàn xã đã trồng được 300 ha vẹt, hàng
vạn cây trên các trục đường giao thông và tại các gia đình. Ngoài ra, Đảng bộ
và chính quyền xã đã tổ chức phát động phong trào trồng cây dược liệu trong
nhân dân nhằm tận dụng các diện tích đất trống, nguồn lao động dồi dào nhưng
thực tế, thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt được chưa
cao nên không thu hút được nhân dân tham gia thực hiện.
Để tận
dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, tăng thêm thu nhập cho xã viên, đặc
biệt là giải quyết lực lượng lao động dư thừa trong lúc nông nhàn, Đảng bộ đã
đề ra chủ trương phát triển và mở rộng các ngành nghề thủ công phục vụ xuất
khẩu như: đan bao manh, dệt chiếu, làm quại… Sản phẩm xã viên làm ra được thu
mua theo giá thỏa thuận. Chủ trương của Đảng bộ đã thu hút được đông đảo các hộ
xã viên tham gia và góp phần tăng thu nhập cho nhân dân. Năm 1987 có 195 hộ,
đến năm 1988 tăng lên 696 hộ, chiếm hơn 2/3 tổng số hộ gia đình của toàn xã.
Tính riêng quý IV/1987, sản lượng bao manh đạt 6.000 lá và ba quý đầu năm 1988
sản lượng đạt 35.000 lá.
Các
hoạt động dịch vụ trong xã bước đầu có sự phát triển phục vụ sản xuất và đời
sống của nhân dân; đặc biệt là lưu thông tiêu thụ hàng thủy hải sản và các sản
phẩm tiểu thủ công nghiệp. Ngành tài chính đã đẩy mạnh khai thác các nguồn thu,
tiết kiệm chi, cân đối và đảm bảo cho các yêu cầu chi của xã.
Những
kết quả đạt được trên mặt trận kinh tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát
triển về văn hóa- xã hội. Mặc dù trong giai đoạn từ 1986- 1990, nguồn ngân sách
địa phương còn rất thiếu thốn nhưng cấp ủy Đảng, chính quyền đã xác định phải
ưu tiên hàng đầu cho sự nghiệp giáo dục. Đội ngũ giáo viên được tăng cường, cơ
sở vật chất cho dạy và học được sửa chữa, bổ sung làm mới hàng năm. Trong 5 năm
(1986- 1990), Nam
Điền đã đầu tư xây mới 10 phòng học, đóng mới và sửa chữa hàng trăm bộ bàn ghế.
Đứng
trước thực tế là giáo dục ngày càng phát triển, số học sinh của Nam Điền ngày
càng tăng, vì vậy, năm 1990, Đảng ủy, UBND xã Nam Điền đã đề nghị huyện cho mở
lớp cấp II. Đến tháng 8/1990, Trường PTCS xã Nam Điền được thành lập với 35 cán
bộ, giáo viên do thầy Trần Thiện Thập làm Hiệu trưởng (thay thầy Phạm Ngọc
Nhưng nghỉ hưu). Năm học 1990- 1991, trường có 31 lớp, trong đó có 30 lớp cấp I
với 1.021 học sinh và 1 lớp cấp II (lớp 6) với 43 học sinh. Đây chính là nền
tảng cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển của trường Tiểu học và THCS Nam
Điền sau này.
Công
tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cho các đối tượng cũng được chú trọng và thực
tế đã đạt một số kết quả tốt. Chất lượng dạy và học có chuyển biến rõ rệt, bước
đầu tạo ra niềm tin trong quần chúng nhân dân.
Công
tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm một cách đúng mức.
Năm 1990 xã đã trích 2 triệu đồng từ ngân sách để mua sắm và sửa chữa trang
thiết bị y tế phục vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đội ngũ cán
bộ của trạm y tế và của các thôn đội được củng cố, đảm bảo 100% các xóm đều có
cán bộ y tế. Trạm y tế xã đã tổ chức tốt việc tiêm phòng, tuyên truyền vệ sinh
phòng, chống dịch bệnh và khám chữa bệnh cho nhân dân. Đặc biệt, khi Đảng ủy,
UBND xã Nam Điền triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/HU ngày 20/3/1989 của
Ban Thường vụ Huyện ủy Nghĩa Hưng “về thực hiện chương trình dân số- kế hoạch
hóa gia đình” trạm y tế đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền
và thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Do đó đã làm giảm đáng kể tỷ
lệ gia tăng dân số của địa phương. Năm 1986, tỷ lệ tăng dân số là 2,58%; đến
năm 1990 giảm xuống còn 1,84%.
Tính
đặc thù của Nam Điền là dân cư đến từ nhiều vùng miền, cả trong tỉnh và ngoài
tỉnh nên việc sinh hoạt cộng đồng ở các thôn xóm mang nhiều nét văn hóa khác
nhau, nhiều phong tục khác nhau, đan xen giữa truyền thống tốt đẹp và tập quán
lạc hậu. Vì vậy, để từng bước xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh và củng cố
khối đoàn kết cộng đồng, Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị đã quan
tâm đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong quần chúng, phát động nhân
dân thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa mới, nếp sống mới kết hợp
với việc thực hiện các quy chế ở địa phương. Hệ thống loa truyền thanh với 5
cụm loa được xây dựng theo địa bàn dân cư đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu thông
tin cần thiết cho nhân dân. Hệ thống loa truyền thanh đã thực sự phát huy tốt
chức năng là cầu nối đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và địa
phương đến với người dân, góp phần làm cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân ngày càng phong phú, đa dạng.
Các
chính sách xã hội đã được Đảng ủy và chính quyền tổ chức thực hiện một cách
nghiêm túc, đầy đủ và đề ra quy chế thăm hỏi, động viên, trợ cấp kịp thời với
các đối tượng là gia đình thương binh liệt sĩ, người già neo đơn, người tàn
tật…
Đảng ủy
và chính quyền xã đã tổ chức tuyên truyền và thực hiện tốt luật nghĩa vụ quân
sự, chính sách hậu phương quân đội; tập trung thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
trọng tâm là động viên thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc và củng cố xây
dựng lực lượng tại chỗ. Thực hiện chỉ đạo của huyện, hướng dẫn của Ban Chỉ huy
Quân sự huyện, xã đội đã tham mưu cho UBND xã xây dựng phương án bảo vệ địa
bàn, phương án phòng thủ bờ biển. Trong 5 năm, từ 1986- 1990, Nam Điền luôn
đạt và vượt chỉ tiêu giao quân, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Năm 1990,
Nam
Điền được tỉnh, huyện công nhận là đơn vị quyết thắng trong phong trào bảo vệ
Tổ quốc.
Diễn
biến tình hình an ninh trật tự xã hội trong những năm 1986- 1990 có nhiều phức
tạp, các thế lực thù địch bao vây cấm vận tăng cường hoạt động làm ảnh hưởng
lớn đến công tác bảo đảm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của
địa phương. Với đặc điểm là một xã ven biển xung yếu thuộc tuyến biên phòng của
huyện, Đảng bộ luôn coi trọng việc giáo dục, giác ngộ quần chúng, nâng cao cảnh
giác đấu tranh chống mọi biểu hiện, âm mưu hành động phá hoại nhiều mặt của kẻ
địch. Công tác quản lý hộ tịch hộ khẩu ở địa phương cũng được tiến hành chặt
chẽ và tăng cường. Lực lượng an ninh, dự bị động viên được xây dựng và củng cố,
đi vào hoạt động tốt. Các tệ nạn xã hội như trộm cắp tài sản công dân, gây rối
trật tự trị an, các biểu hiện lợi dụng tôn giáo, mê tín dị đoan đã được ngăn
chặn và đẩy lùi.
Công
tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Để xây dựng tổ chức Đảng ngang tầm nhiệm vụ và lãnh đạo
nhân dân thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ luôn coi trọng công tác xây dựng
Đảng, trong đó trọng tâm là xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
Về công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, Đảng bộ đã tổ chức tốt việc học tập, quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy và Huyện ủy gắn
với thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, thực tế đã phát huy có hiệu quả và
từng bước đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Đặc biệt là công tác tuyên truyền giáo
dục chính trị tư tưởng, Đảng bộ đã tập trung thực hiện tốt việc tuyên truyền
cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng và đầy đủ diễn biến phức tạp của tình hình
trong nước và thế giới; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quan điểm,
đường lối của Đảng, Nhà nước; trách nhiệm, vai trò của cán bộ đảng viên trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy, niềm tin vào Đảng, vào chế độ Xã hội chủ nghĩa và nhận thức về vai trò
lãnh đạo của Đảng trong cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ngày càng được
củng cố vững chắc, đa số đảng viên đã giữ được phẩm chất và vai trò tiên phong
gương mẫu trong thực hiện các phong trào.
Hưởng
ứng cuộc vận động làm trong sạch nội bộ Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững
mạnh, trong thời gian từ năm 1986- 1990, Đảng bộ đã tiến hành kiện toàn 9/10
chi bộ cơ sở; kết nạp Đảng cho 32 quần chúng ưu tú, đổi mới nội dung sinh hoạt
chi bộ; tăng cường công tác kiểm tra, quản lý đảng viên và thường xuyên quan
tâm giúp đỡ những đảng viên sai phạm sửa chữa tiến bộ, kịp thời đưa ra khỏi
Đảng những đảng viên sa sút ý chí, vi phạm nghị quyết, Điều lệ Đảng… Kết quả
phân loại đánh giá hàng năm số đảng viên phát huy tốt luôn chiếm trên 75%.
Trong
giai đoạn 1986- 1990, Đảng ủy đã lãnh đạo tổ chức thành công hai cuộc bầu cử
HĐND vào tháng 4/1987, và tháng 4/1989, bầu được 25 đại biểu HĐND xã và trong
cả hai lần bầu cử đại biểu HĐND xã đồng chí Nguyễn Thế Khang đều được tín nhiệm
bầu là Chủ tịch UBND xã. Qua các cuộc bầu cử, bộ máy chính quyền đều được củng
cố, kiện toàn, đảm bảo năng lực hoạt động, thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, chỉ đạo phát triển kinh tế- xã hội; chăm
lo mọi mặt của đời sống nhân dân. Thực hiện: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Xác
định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương; đặc biệt là công tác tuyên truyền vận động
quần chúng nhân dân trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang có
những diễn biến phức tạp. Đảng bộ xã Nam Điền luôn quan tâm lãnh đạo và
củng cố kiện toàn các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội bao gồm: Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân. Thực hiện chỉ đạo của cấp
uỷ Đảng các cấp, năm 1990 Nam Điền đã thành lập Hội Cựu chiến binh xã nhằm thu
hút, tập hợp các cựu chiến binh tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hội và tiếp
tục phát huy phẩm chất “Anh bộ đội cụ Hồ”. Các đoàn thể đã dần khẳng định được
vai trò thông qua các hoạt động cụ thể như tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện các
nhiệm vụ của địa phương, nhiệm vụ của đoàn, hội; đã thu hút được đông đảo hội
viên tham gia.
Tuy
nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: sản xuất nông nghiệp bấp bênh, chưa
ổn định; tiềm năng kinh tế biển chưa được khai thác một cách hiệu quả, chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế… Nhưng bằng sự nỗ lực, cố gắng, tinh thần đoàn kết,
quyết tâm vượt mọi khó khăn, khai thác hiệu quả các nguồn lực sẵn có. Trải qua
5 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng; Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã đạt được
những thành tựu quan trọng, bước đầu ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhân
dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền, gắn bó với quê hương,
vùng đất mới. Những kết quả, thành tích đó đã củng cố thêm niềm tin cho Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân Nam
Điền vững bước đi lên trong chặng đường cách mạng tiếp theo.
2- Tiếp tục con đường đổi mới, Nam Điền từng bước vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội (1991-
1995)
Sang
đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đã xảy ra một cuộc biến động
chính trị to lớn và sâu sắc. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu sụp
đổ; các thế lực thù địch tấn công quyết liệt nhằm thủ tiêu Chủ nghĩa xã hội,
thủ tiêu học thuyết Mác-Lênin. Trong nước, đường lối đổi mới được đề ra tại Đại
hội VI của Đảng đã tạo ra luồng sinh khí mới, song mới chỉ là bước đi ban đầu,
đất nước còn muôn vàn khó khăn, kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân
thiếu thốn, các thế lực thù địch bao vây cấm vận; một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân hoang mang, dao động thiếu niềm tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của
Đảng và của Chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, tháng 6/1991, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”; “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã
hội 1991-2000”, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI trình
Đại hội; kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII; bổ sung sửa đổi Điều lệ
Đảng. Các văn kiện Đại hội VII của Đảng đã khẳng định bản lĩnh chính trị, tầm
trí tuệ tuyệt vời của Đảng Cộng sản Việt Nam; định hướng, mở đường cho những
thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1991- 1995) là “vượt qua khó
khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường ổn định chính
trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng
khủng hoảng hiện nay”.
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ngày
15/9/1991, Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ VII (nhiệm kỳ 1991- 1994) được tổ chức với sự tham dự của 63 đảng
viên thuộc 8 chi bộ. Đại hội đã tiến hành kiện toàn bộ máy lãnh đạo mới, bầu ra
Ban Chấp hành khóa VII gồm 9 đồng chí. Đồng chí Trần Thành Dung được bầu là Bí
thư Ban Chấp hành Đảng bộ; đồng chí Nguyễn Thế Khang là Phó Bí thư- Chủ tịch
UBND xã; đồng chí Đoàn Công Thạo là Ủy viên Thường vụ Thường trực Đảng- Chủ
nhiệm UBKT Đảng uỷ.
Đại hội
đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là: “Đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp; tiềm năng kinh tế biển; chăm lo phát triển kinh tế gia đình và các
ngành nghề thủ công; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế- văn hóa xã hội; giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội; xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ngày
càng vững mạnh, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, không hoang mang dao
động, kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa”.
Ngày
04/6/1994, Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ VIII (nhiệm kỳ 1994- 1996) được tổ chức với sự có mặt của
64 đảng viên thuộc 8 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành khóa VIII gồm 9
đồng chí. Các đồng chí Trần Thành Dung, Nguyễn Thế Khang, Đoàn Công Thạo tiếp
tục được bầu làm Bí thư Ban chấp hành Đảng bộ, Phó Bí thư- Chủ tịch UBND xã và
Ủy viên Thường vụ Thường trực Đảng ủy- Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ. Nghị quyết Đại
hội đã khẳng định mục tiêu: “ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao tổng sản
phẩm xã hội, từng bước ổn định và cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh
thần của nhân dân; phấn đấu có tích lũy và mở rộng sản xuất”.
Dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng và sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ; sự đoàn kết nhất trí của cán bộ và nhân
dân trong xã, trong 5 năm từ 1991- 1995, Nam Điền tiếp tục đạt được những thành
tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý trong nông
nghiệp, Nghị định 64/CP, ngày 27/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số
115/QĐ-UB, ngày 15/2/1992 của UBND tỉnh Nam Hà về điều chỉnh, chia ruộng ổn
định lâu dài cho nông dân và Nghị quyết số 09-NQ/HU, ngày 14/9/1993 của Ban
Thường vụ Huyện ủy Nghĩa Hưng về “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế- xã hội
nông thôn Nghĩa Hưng đến năm 2000”, Đảng bộ xã Nam Điền đã chỉ đạo thành lập
Ban chỉ đạo chia ruộng, tiến hành rà soát lại toàn bộ quỹ đất đai, nhân hộ
khẩu, xây dựng quy hoạch, phân vùng định sản lượng cho từng loại đất, từ đó
chia lại diện tích đất canh tác bình quân theo khẩu; hạn chế manh mún; đảm bảo
tính công bằng, dân chủ, công khai; gắn với việc củng cố và kiện toàn cơ chế
quản lý mới, nhằm phát huy tiềm lực, quyền tự chủ của kinh tế hộ xã viên, hộ tư
nhân; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới để nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả canh tác, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường. Vì vậy, những năm từ 1991-1995, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn như thời
tiết thất thường gây úng lụt, hạn hán (trong 2 tháng 7 và 8 năm 1996 Nam Điền
phải hứng chịu 3 trận bão liên tiếp, uy hiếp nghiêm trọng tuyến đê biển và làm
sạt lở 220 m kè Nam Điền), vụ chiêm xuân luôn thiếu nước tưới do bị nước mặn
xâm lấn, hệ thống thủy lợi và dịch vụ tưới tiêu chưa được khắc phục, nguồn vốn
còn rất thiếu thốn, tình trạng khê đọng sản phẩm còn phổ biến… nhưng cán bộ và
nhân dân trong xã đã đoàn kết, thống nhất quyết tâm thực hiện thắng lợi các
Nghị quyết của Đảng, chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, mạnh dạn áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Phong trào sản xuất ở địa
phương được duy trì và phát triển, nổi bật là lĩnh vực nông nghiệp.
Do địa
hình của Nam
Điền có 3 mặt giáp biển, độ mặn cao, mặt phẳng không đều, vụ chiêm xuân hàng
năm thường bị ảnh hưởng rét đậm kéo dài và thiếu nước tưới, Đảng bộ quán triệt
thực hiện phương châm “lấy mùa bù chiêm”, áp dụng mọi biện pháp như: cải tạo
mặt bằng đồng ruộng; hỗ trợ về vốn để đưa các giống lúa mới vào sản xuất; chủ
động các khâu làm đất, giống, gieo mạ, phân bón, thông báo tình hình sâu bệnh kịp
thời; lập kế hoạch chủ động điều tiết nước, khơi thông dòng chảy, tận dụng
triệt để mọi nguồn nước, mọi phương tiện và nhân lực để thau chua rửa mặn, làm
giảm thiểu những khó khăn và rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, từng bước cải
tạo tăng diện tích lúa từ một vụ sang hai vụ. Các giống lúa mới ngắn ngày có
năng suất cao, chịu mặn tốt, phù hợp với đồng đất Nam Điền được đưa vào thay thế
những giống lúa dài ngày có năng suất thấp. Năm 1995, tỷ lệ giống mới được đưa
vào gieo trồng chiếm 10%.
Thực
hiện cơ chế đổi mới trong nông nghiệp, Đảng ủy đã chỉ đạo HTX đứng ra tổ chức
dịch vụ khoán, quản khâu điều tiết nước, bảo vệ đồng ruộng, dịch vụ sâu bệnh,
tiến hành củng cố tổ vệ nông gồm 13 người, tổ cống gồm 6 người và tổ bảo vệ
thực vật gồm 3 người. Các tổ có nhiệm vụ bám sát sự chỉ đạo về nông nghiệp của
Đảng ủy, chính quyền và Ban quản trị HTX, thông báo tình hình sâu bệnh đúng
thời điểm, tưới tiêu bảo vệ đồng ruộng, làm tốt công tác tiêm phòng dịch bệnh
cho đàn gia súc, gia cầm, tạo điều kiện cho xã viên yên tâm sản xuất, góp phần
quan trọng vào việc tăng năng suất cây trồng.
Vì vậy,
trong giai đoạn 1991- 1995, có những năm thời tiết khắc nghiệt, diện tích lúa
cấy bị giảm sút nhưng năng suất và sản lượng bình quân hàng năm đều tăng. Bình
quân 5 năm, diện tích lúa đạt 387 ha/năm (tăng 1,9 lần so với bình quân 5 năm
1986- 1990), năng suất lúa đạt 54,8 tạ/ha/năm (tăng 1,7 lần).
Sản
xuất rau màu được xác định là một trong những lĩnh vực quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp ở Nam Điền, đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ gia
đình, là bước đệm trong phương châm “lấy ngắn nuôi dài” hỗ trợ cho cây lúa và
chăn nuôi phát triển. Chính vì vậy, trong 5 năm từ 1991- 1995, toàn bộ diện
tích đất gò, bãi hoang hóa đã được đưa vào khai thác trồng cấy có hiệu quả,
cùng với việc mở rộng diện tích trồng màu trong các hộ gia đình. Các loại cây
rau màu chủ yếu được đưa vào trồng là: hành, tỏi, cà chua, su hào, cải bắp, súp
lơ… Bình quân, trong 3 năm từ 1993- 1995, mỗi năm Nam Điền trồng được 150 ha rau màu
các loại.
Đảng
ủy, HĐND, UBND đã phát động toàn dân cùng hưởng ứng phong trào trồng cây chắn
sóng, trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả để lấy bóng mát và tạo cảnh quan xanh,
sạch cho thôn xóm. Trong 2 năm 1994- 1995, xã đã trồng được 15.000 cây các
loại, riêng năm 1995 trồng được 10.000 cây trên các diện tích đất công, đất
đường trục của xã; trồng 150 ha vẹt trên vùng đất công của huyện, trồng và chăm
sóc 4 ha cây phi lao trên bãi bồi Cồn Mờ.
Do có
điều kiện thuận lợi về bãi chăn thả là diện tích ven đê và sản xuất nông nghiệp
không ngừng phát triển đã tạo động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển
mạnh. Mặc dù các phương tiện cơ giới được đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp
ngày một nhiều nhưng đàn trâu, đàn bò vẫn được giữ ổn định và có bước phát
triển. Năm 1995, đàn trâu của xã có 197 con, trong đó có 45 con là trâu sinh
sản. Đàn bò có 40 con. Đàn lợn của xã viên là 700 con, trong đó lợn nái 160
con, trọng lượng lợn xuất chuồng bình quân đạt 50kg/con; đàn gia cầm có 5.000
con.
Với vị
trí địa lý ưu đãi là một xã ven biển lại có diện tích đầm hồ tự nhiên lớn kết
hợp với diện tích ao hồ trong dân cư nên hàng năm việc đánh bắt, nuôi trồng
thủy hải sản đạt sản lượng lên tới hàng trăm tấn với các loại hải sản phong phú
có hiệu quả kinh tế cao như: cua, cá, tôm, rau câu, vạng… Năm 1994, sản lượng
khai thác thủy sản đạt 133 tấn, góp phần tăng thu nhập và ổn định đời sống nhân
dân.
Những
năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Liên Xô và khối Đông Âu bị sụp đổ đã tác động
mạnh tới thị trường tiêu thụ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Vì
vậy, phần lớn diện tích các loại cây công nghiệp như cây cói, cây đay, cây dâu
tằm đã bị phá bỏ và chuyển sang trồng các loại cây rau màu, cây ăn quả. Các
ngành nghề thủ công truyền thống như dệt chiếu, đan manh, làm quại… bị thu hẹp.
Thay thế vào đó là các ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng như sản xuất gạch,
vôi, chế biến gỗ… đáp ứng nhu cầu xây dựng ngày càng phát triển của địa phương.
Năm 1995, sản xuất gạch, vôi đã tăng gấp 2,4 lần so với năm 1993. Cụ thể: năm
1993, sản xuất gạch đạt 75 vạn viên, sản xuất vôi đạt 1.500 tấn; năm 1994 là 80
vạn viên gạch và 1.600 tấn vôi; năm 1995 là 180 vạn viên gạch và 3.600 tấn vôi.
Đến năm
1990, hoạt động thương mại dịch vụ ở địa phương khá phát triển, toàn xã có 70
hộ kinh doanh dịch vụ các loại, có 13 máy xay sát, 50 máy bơm nước, 4 xe công
nông, 30 thuyền vận tải trong đó có 20 thuyền gắn máy làm nghề khai thác biển
và vận chuyển hàng hóa. Hàng trăm hộ buôn bán trên biển và trên đất liền. Dịch
vụ nông nghiệp, phân bón và các loại hình dịch vụ khác phát triển nhanh, đa
dạng đáp ứng nhu cầu của cuộc sống dân sinh và phát triển kinh tế của địa
phương. Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, chiếm từ 35- 40% số hộ trong toàn
xã.
Thực
hiện đúng phương châm chỉ đạo của Đảng bộ, phong trào sản xuất đã có chuyển
biến rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện. Các mặt văn hóa- xã hội đã và
đang từng bước ổn định, phát triển phù hợp với tình hình mới. Các hủ tục mê tín
dị đoan, tệ nạn cờ bạc, rượu chè giảm xuống rõ rệt. Nếp sống văn hóa mới dần
hình thành, đã và đang trở thành những nét đẹp trong cộng đồng dân cư.
Thực
hiện đổi mới cải cách trong giáo dục- đào tạo và sự chỉ đạo của cấp trên, ngày
01/9/1995, trường Phổ thông cơ sở xã Nam Điền được tách thành trường
Tiểu học và trường Trung học cơ sở (THCS). Trường Tiểu học xã Nam Điền đặt tại khu vực xóm 6 và Trường THCS xã
Nam
Điền đặt tại khu trung tâm (xóm 1). Năm học 1995- 1996, tổng số học sinh của Nam
Điền là 1.366 học sinh, trong đó có 7 lớp với 343 học sinh THCS và 26 lớp với 1.023
học sinh Tiểu học. Đặc biệt, trong năm học 1994- 1995, ngành giáo dục Nam Điền đã có
nhiều cố gắng, hoàn thành công tác phổ cập giáo dục tiểu học. Các chỉ tiêu đều
đạt từ 91% trở lên. Tỷ lệ học sinh bỏ học thấp. Kết quả kỳ thi cuối năm học các
lớp lên thẳng bình quân đạt 98%, riêng lớp 5 đạt 81%. Đây là một thành tích rất
đáng khích lệ và biểu dương của ngành giáo dục Nam Điền, thể hiện sự cố gắng nỗ
lực nêu cao tinh thần quyết tâm vượt khó vươn lên, nâng cao chất lượng dạy và
học của tất cả các thầy, cô giáo và toàn thể phụ huynh, học sinh; đồng thời
cũng khẳng định sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với sự nghiệp
giáo dục nói chung nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ quê hương, Tổ quốc.
Công
tác khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh được chú trọng thường xuyên, thực
hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế được
củng cố, trạm y tế xã có cán bộ chuyên môn thường trực 24/24 giờ trong ngày.
Các chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện tốt, đảm bảo 100% các cháu
trong độ tuổi được tiêm phòng đủ 6 bệnh ở trẻ, được uống vắc xin phòng bại liệt
và Vitamin A. Riêng năm 1995, trạm y tế đã khám và điều trị cho 3.680 lượt
người, trong đó điều trị tại trạm là 35 người; tổ chức khám mắt cho hàng trăm
lượt người. Tuyên truyền cho nhân dân, đặc biệt là học sinh cách phòng và điều
trị mắt hột. Công tác truyền thông dân số- kế hoạch hóa gia đình được các
ngành, các tổ chức đoàn thể quan tâm vận động, đã góp phần quan trọng trong
việc hạ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của xã. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
bình quân 5 năm (1991- 1995) của xã Nam Điền là 1,7%.
Công
tác thông tin tuyên truyền đã được củng cố và hoạt động thường xuyên, có hiệu
quả. Các Chỉ thị, Nghị quyết, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước; nhiệm vụ sản xuất- phát triển kinh tế- xã hội của địa phương
được tuyên truyền phổ biến kịp thời tới
đông đảo quần chúng nhân dân. Thông qua đó đã làm cho nhân dân hiểu, thực hiện
đúng pháp luật, quyền và nghĩa vụ công dân góp phần đáng kể vào việc ngăn ngừa
tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Trong 5
năm từ 1991- 1995, thị trường có nhiều biến động, giá cả một số mặt hàng thiết
yếu phục vụ đời sống như lương thực, thực phẩm tăng lên nhưng nhìn chung đời
sống nhân dân vẫn được ổn định, kinh tế hộ gia đình tiếp tục phát triển, số hộ
làm kinh tế giỏi tăng, số hộ nghèo đói giảm đáng kể. Đến năm 1995, toàn xã có
80-85% số hộ có nhà xây khang trang; nhiều hộ đã mua sắm được các đồ dùng sinh
hoạt như: xe máy, ti vi, tủ lạnh, đài cát sét… và các phương tiện phục vụ sản
xuất như: máy xát gạo, máy tuốt lúa, máy làm mộc, thuyền máy, máy bơm nước,
công nông, máy bừa… Các gia đình hưởng chế độ chính sách được quan tâm, đời
sống từng bước được cải thiện.
Trong
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến thiết cơ bản, năm 1994, Nam Điền đã
khởi công xây dựng trụ sở làm việc của Đảng ủy, HĐND và UBND, đến năm 1995 hoàn
thành với tổng số vốn là 360 triệu đồng; xây dựng hoàn thiện đường điện Ô2, Ô3,
Ô4 và trạm điện số 2; lắp đặt và cải tạo hệ thống đài phát thanh xã bằng sóng
FM, sửa chữa trạm y tế, trường học, hệ thống kho tàng, cải tạo san lấp quy
hoạch lại vùng Ô3 và Ô4; đầu tư sửa chữa các đầu nối kênh mương cấp 3, các cầu
xuống đồng bị hư hỏng, ấp túc các bờ vùng bờ thửa phục vụ sản xuất. Năm 1995 xã
đã đầu tư 1.000 m3 đá và 1.000 ngày công để duy tu tuyến đường trục
từ Ô1 đến Ô4 và đường tới trụ sở xã. Hệ thống đường giao thông thôn xóm ở các
cơ sở cũng được đầu tư xây dựng. Một số xóm như xóm 5, 6, 9 đã vận động nhân
dân đóng góp công sức để thực hiện quy hoạch xây dựng hệ thống giao thông dong
xóm.
Là địa
bàn xung yếu, tình hình an ninh chính trị phức tạp vì vậy việc đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền thường
xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo. Lực lượng an ninh của xã được củng cố và
kiện toàn, có mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức ban, ngành, đoàn thể, tăng
cường đảm bảo tốt chế độ tuần tra canh gác, giữ vững an ninh chính trị trên địa
bàn. Lực lượng quân sự địa phương được củng cố, xây dựng; tổ chức các phân đội
trực chiến và các tiểu đội dân quân theo lũy tre xanh. Trong 5 năm, Nam Điền luôn
hoàn thành chỉ tiêu gọi, khám tuyển đưa thanh niên lên đường nhập ngũ.
Như
vậy, qua hai nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ VII và
lần thứ VIII theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, sản
xuất nông nghiệp của Nam Điền đã từng bước có sự chuyển dịch phù hợp với trình
độ thâm canh và công tác quản lý của địa phương; tận dụng và khai thác có hiệu
quả các diện tích đất màu, đất lúa, thùng đào, thùng đấu. Phong trào làm kinh
tế gia đình theo mô hình VAC (vườn- ao- chuồng) phát triển rộng khắp và thu
được kết quả quan trọng. Các thế mạnh của địa phương đang từng bước được khai
thác và phát huy hiệu quả. Tổng thu nhập trong xã, thu nhập bình quân đầu người
và cơ cấu kinh tế đều có sự chuyển biến tích cực. Năm 1993, tổng giá trị thu
nhập (GDP) toàn xã đạt 3.181,5 triệu đồng. Bình quân thu nhập đầu người đạt
0,63 triệu đồng/người/năm. Tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế: ngành nông
nghiệp chiếm 36,98%; ngành thủy sản 41,19%; ngành công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp 5,04%; ngành dịch vụ- thương mại- giao thông vận tải- xây dựng cơ bản
10,46%; ngành giáo dục và bảo hiểm xã hội 6,34%. Đảng bộ đã làm tốt công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng, nâng hiệu quả công tác chính trị tư
tưởng, tổ chức lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, triển
khai có hiệu quả các chính sách xã hội, nhất là xoá đói, giảm nghèo; các chính
sách về giáo dục, y tế, văn hoá. Đây là những thành tích rất đáng khích lệ, tạo
tiền đề thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân Nam Điền bước vào thực hiện các nhiệm
vụ trong giai đoạn mới.
3- Đảng bộ lãnh đạo phát triển toàn diện nông- lâm- ngư nghiệp, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp- nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá- hiện đại hoá (1996- 2000)
Sau 10
năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đất nước ta đã cơ bản thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội và tạo được những tiền đề vững chắc để bước
vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Giữa
năm 1996 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được tổ chức. Đại hội đã đánh giá
thành tựu của 10 năm đổi mới đất nước: “thế và lực của đất nước ta đã có sự
biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội
nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã
tạo được tiền đề để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”. Từ đó, Nghị quyết Đại hội đã xác định phương hướng
nhiệm vụ của giai đoạn 1996- 2000: “phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Ngày 04/02/1996,
Đại hội Đảng bộ xã Nam
Điền lần thứ IX (nhiệm kỳ 1996- 2000) được tổ chức với sự tham dự của 66 Đảng
viên thuộc 8 chi bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ khóa IX gồm 9 đồng
chí. Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu đồng chí Trần Thành Dung là Bí thư Ban Chấp
hành Đảng bộ - Chủ tịch HĐND xã, đồng chí Nguyễn Thế Khang là Phó Bí thư- Chủ
tịch UBND xã, đồng chí Trần Xuân Lệ là Ủy viên Thường vụ Thường trực Đảng- Chủ
nhiệm UBKT Đảng uỷ.
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và căn cứ vào tình hình
thực tế của địa phương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần thứ IX đã
xác định mục tiêu: Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng diện tích lúa
hai vụ, đưa các giống lúa mới vào gieo trồng, đổi mới các hình thức dịch vụ
phục vụ nông nghiệp, từng bước quy hoạch vùng trồng cây vụ đông; mở rộng và
phát triển nghề khai thác, nuôi trồng thủy hải sản; đẩy mạnh phát triển kinh tế
hộ gia đình theo mô hình VAC; cải thiện đời sống nhân dân. Tăng cường công tác
quản lý xã hội đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, dân chủ, công khai, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn.
Tháng 3
năm 1996, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX được tổ chức thành công. Để phát huy
lợi thế của từng địa phương trong phát triển kinh tế, Huyện uỷ chủ trương thành
lập 3 tiểu vùng kinh tế. Nam Điền thuộc tiểu vùng 3; nhiệm vụ của tiểu vùng 3
là tập trung thâm canh cao độ hai vụ lúa; tăng cường trồng cây hoa màu, cây
công nghiệp như cói, đay, dâu tằm; nuôi trồng, khai thác thuỷ, hải sản.
Trong
nhiệm kỳ 1996- 2000, Nam
Điền gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết, nắng hạn kéo dài, nước mặn
lên cao (vụ chiêm năm 1999: 60% diện tích lúa gieo cấy bị nhiễm mặn dẫn đến
thất thu), thiếu nước phục vụ sản xuất. Hệ thống thủy lợi được đầu tư cải tạo,
nâng cấp song chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và chưa được hòa nhập vào hệ
thống tưới tiêu chung của toàn huyện. Nhưng với sự nỗ lực cố gắng của nhân dân,
sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã động viên nhân
dân bám đồng, bám ruộng, tích cực gieo cấy, chăm bón và làm tốt công tác phòng
trừ sâu bệnh hại lúa bảo vệ mùa màng. Năm 1998, được sự giúp đỡ của Phòng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nghĩa Hưng, Nam Điền đã tổ chức thành công
lớp tập huấn về chuyển giao khoa học kỹ thuật phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại
lúa trong chương trình IPM, giúp nông dân nắm vững kỹ thuật chăm sóc và bảo vệ
mùa màng. Các giống lúa mới có năng suất cao, ổn định và các giống lúa đặc sản
như tám, nếp được khuyến khích đưa vào gieo cấy tạo sự chuyển biến mạnh về cơ
cấu giống. Năm 1999- 2000, cơ cấu giống mới chiếm 75-80% và đã tạo ra bước đột
phá về năng suất và sản lượng lúa, góp phần ổn định nguồn lương thực của địa
phương.
Công
tác thủy lợi nội đồng, điều tiết nước, bảo vệ thực vật được xác định là một
trong những nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy và chính quyền. Hàng năm xã đều
xây dựng kế hoạch tổ chức ấp trúc các bờ vùng, bờ thửa, nạo vét kênh mương,
khơi thông dòng chảy bảo đảm lấy nước thuận tiện, tiêu nước kịp thời. Hệ thống
kênh mương cấp I, cấp II được huyện đầu tư nâng cấp. Xã trích một phần nguồn
vốn của Hợp tác xã và cùng với sự đóng góp của nhân dân để đầu tư nạo vét mương
cấp III, bổ sung xây mới và củng cố lại hệ thống cống bi đầu mối. Nhân dân góp
công sức đào đắp 7.180 m3 đất để nâng cấp đường phân Tùng, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đi lại, vận chuyển và khoanh vùng giữ nước. Trong năm 1998, Nam Điền đã đầu
tư nạo vét hệ thống thuỷ lợi, với khối lượng 9.120 m3 đất, bê tông hóa được 150
cống bi đầu mối. Trên cơ sở đó, Đảng bộ và HTX đã chỉ đạo đưa lúa chiêm vào
gieo cấy trên diện rộng và đạt thắng lợi. Từ năm 1998 trở đi Nam Điền chính
thức đi vào sản xuất lúa hai vụ, tuy diện tích gieo cấy và năng suất, sản lượng
không ổn định vì còn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nhưng đã mở ra một
hướng đi mới cho ngành sản xuất nông nghiệp.
Công
tác phòng trừ sâu bệnh, diệt chuột hại lúa được chỉ đạo sâu sát tới tận các
thôn đội sản xuất. HTX đã phát động phong trào diệt chuột bằng các biện pháp,
như khuyến khích nuôi mèo, tổ chức vây bắt thủ công và tổ chức thu mua đuôi
chuột… vừa đảm bảo môi trường, vừa làm giảm sự phá hoại của chuột tới mùa màng.
Đầu
nhiệm kỳ tình trạng nợ đọng của nhân dân đối với HTX nông nghiệp rất phổ biến,
HTX không còn vốn để hoạt động. Do đó, Đảng ủy, chính quyền xã đã chỉ đạo phải
củng cố, tổ chức sắp xếp lại bộ máy cán bộ cho phù hợp và đẩy mạnh các biện
pháp thu hồi công nợ. Từ năm 1998, hoạt động của HTX được chuyển đổi theo Luật
HTX và thực hiện đề án điều chỉnh ruộng đất theo Quyết định 115 của UBND tỉnh
tiến tới hoàn thiện hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu
dài cho nhân dân theo Luật đất đai và Nghị định 64/CP của Chính phủ. Ruộng đất
được điều chỉnh ổn định trong toàn xã, từ đó đã làm thay đổi cách nghĩ, cách
làm, nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần tự chủ trong sản xuất của nông
dân.
Mặc dù
thời tiết khắc nghiệt, điều kiện phục vụ sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó
khăn nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền và cố gắng của nhân
dân nên trong nhiệm kỳ 1996- 2000, diện tích, năng suất và sản lượng đều tăng
vượt mức chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ xã lần thứ IX đề ra. Tổng sản lượng lúa bình
quân 5 năm (1996- 2000) là 1.680 tấn; tăng 55,6% so với bình quân 5 năm
(1991-1995). Tổng sản lượng màu quy thóc bình quân đạt 420 tấn. Tổng sản lượng
lương thực quy thóc bình quân đạt 2.100 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt
350 kg/người/năm. Riêng cây lúa, diện tích năm 1998 đạt 528,03 ha. Năng suất
đạt 31,1 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 1.642,4 tấn, tăng 114 tấn so với
năm 1997.
Cây màu
và chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy hải sản cùng được thúc đẩy và
phát triển mạnh. Đến năm 1998, toàn xã có 67,65 ha đất màu và 29,73 ha đất ao
trong các khu dân cư. Diện tích đầm hồ tự nhiên là 22,96 ha. Tận dụng tiềm năng
sẵn có của địa phương, 100% diện tích đất màu và diện tích mặt nước đã được đưa
vào khai thác có hiệu qủa. Năng suất cây trồng, chăn nuôi gia súc gia cầm và
nuôi trồng thủy hải sản ngày một tăng. Mô hình kinh tế VAC phát triển mạnh
trong nhân dân. Cơ cấu giống cây, con được thay đổi phù hợp và đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Nhiều gia đình đã vươn lên thoát nghèo, trở thành hộ khá và giàu,
có thu nhập ổn định từ phát triển kinh tế VAC. Năm 2000, có 20% số hộ có mức
thu nhập cao và ổn định.
Tổng
đàn lợn bình quân trong 5 năm 1996- 2000 là 1.400 con. Tổng đàn gia cầm là 9.200 con. Tổng giá trị sản
xuất toàn ngành nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 5.566.000.000 đồng, tăng 20,7%
so với bình quân 5 năm 1991- 1995.
Khai thác kinh tế biển kém phát triển vì các
phương tiện đánh bắt rất thô sơ, diện tích khai thác bị thu hẹp và nguồn lợi
thủy sản ngày càng cạn kiệt nên sản lượng đánh bắt tự nhiên có chiều hướng giảm
dần. Trái lại, xu hướng đầu tư vào nuôi trồng thủy hải sản trong các đầm, bãi
tăng nhanh; ngành nuôi trồng thủy hải sản tăng mạnh về sản lượng và giá trị.
Bình quân trong nhiệm kỳ, nguồn vốn đầu tư nuôi trồng tăng 25%/năm. Tính riêng
năm 2000, nguồn vốn tăng 50% so với năm 1996. Sản phẩm của ngành thủy sản rất
đa dạng và phong phú bao gồm: tôm sú, cua, cá bớp, rau câu, cá nước ngọt...
Tổng sản lượng đánh bắt, nuôi trồng trong nhiệm kỳ 1996- 2000 tăng bình quân
4,1%/năm. Tổng giá trị nuôi trồng khai thác thủy hải sản trung bình 5 năm 1996-
2000 đạt 5.627 triệu đồng/năm, tăng bình quân 20%/năm, nhiệm kỳ 1991- 1995 đạt
300 triệu đồng/năm. Ngành nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản phát triển đã giải
quyết một phần lớn về nhu cầu việc làm cho mọi lứa tuổi, thu hút 1/5 lao động
trong xã.
Từ những kết quả đạt được trong sản xuất nông
nghiệp, BCH Đảng bộ xã đã chỉ rõ có 3 nguyên nhân cơ bản, đó là: đã chỉ đạo và
thực hiện một bước cách mạng về giống cả trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi
trồng thuỷ, hải sản; đổi mới cơ cấu mùa vụ; thực hiện tốt công tác phòng, trừ
sâu bệnh.
Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thương mại được
khuyến khích phát triển theo quy luật cung cầu của cơ chế thị trường. Nhiều cơ
sở tư nhân đã mạnh dạn đầu tư mở rộng các dịch vụ và đăng ký kinh doanh đa dạng
các mặt hàng. Đến năm 1998, Nam Điền đã có 3 xe khách của tư nhân chạy tuyến Nam
Điền- Nam Định, góp phần thuận tiện cho việc đi lại và trao đổi hàng hóa của
nhân dân. Giá trị sản xuất các dịch vụ chế biến nông sản tăng bình quân
6,7%/năm. Dịch vụ thương mại bình quân hàng năm tăng 16%. Tổng giá trị sản xuất
dịch vụ, thương nghiệp mua bán bình quân 5 năm đạt 545 triệu, tăng 55,7% so với
bình quân 5 năm 1991- 1995.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nghĩa
Hưng lần thứ XX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ IX, Nam Điền đã tập
trung đầu tư toàn diện cho lĩnh vực xây dựng cơ bản như: cải tạo đồng ruộng,
kiến thiết các công trình thủy lợi, công trình giao thông và các công trình
phúc lợi nhằm tạo ra động lực mới để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, dịch vụ chế
biến, giao lưu buôn bán, sinh hoạt đời sống. Đây là nhiệm kỳ ưu tiên cho xây
dựng cơ bản để tạo đà cho sự phát triển của kinh tế- xã hội.
Tổng giá trị xây dựng cơ bản trong 5 năm đạt 1.533
triệu đồng, trong đó ngân sách Nhà nước (tỉnh, huyện đầu tư) là 243 triệu đồng;
ngân sách xã và nhân dân đóng góp 1.248 triệu đồng. Cụ thể: đầu tư cho giao
thông là 870 triệu đồng bao gồm các tuyến đường trục từ Ô 1 đến Ô 4, đường đến
trung tâm xã và đường giao thông thôn xóm; đầu tư cho thủy lợi là 262 triệu
đồng để nạo vét các kênh mương cấp 2, cấp 3, xây mới các cống đầu mối, ấp trúc
các bờ vùng, bờ thửa, mở mang giao thông nội đồng và đầu tư cho các công trình
phúc lợi khác là 401 triệu đồng.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đa số
nhân dân đã xây dựng nhà cửa tương đối khang trang, số hộ ở nhà đất chỉ còn 3%.
Những hộ mua sắm được các phương tiện đắt tiền phục vụ sinh hoạt ngày càng tăng
lên. Đến năm 2000, toàn xã có 165 xe máy, chiếm 12,5% số hộ; 420 tivi, chiếm
32% số hộ; 11 công nông. Ngoài ra, nhân dân còn đầu tư cải tạo tu sửa nâng cấp
đường dong thôn xóm với 15.000 ngày công, trong đó đã có một xóm đường dong
được rải đá cấp phối. Quang cảnh làng xóm ngày càng sạch sẽ, quy củ.
Việc quản lý đất đai dần dần đã đi vào nề nếp,
chặt chẽ, thực hiện đúng quy định pháp luật. Đến năm 2000, Nam Điền đã hoàn
thành việc điều chỉnh ruộng đất và cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho
nhân dân theo Quyết định 115 của UBND tỉnh.
Ngành tài chính thực hiện đúng nguyên tắc thu
đúng, thu đủ; tận thu tối đa các nguồn thu trên địa bàn, làm tăng nguồn thu
ngân sách cho địa phương. Bình quân hàng năm thu ngân sách tăng từ 10,2% trở
lên.
Mặc dù còn nhiều những khó khăn và hạn chế nhưng
cơ cấu kinh tế của Nam Điền đã có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng ngành nông
nghiệp chiếm 55,7%; Ngư nghiệp chiếm 31,3%; Thương mại - dịch vụ và xây dựng cơ
bản chiếm 13%.
Kinh tế phát triển ổn định đã thúc đẩy sự phát
triển tương đối đồng đều của các hoạt động văn hóa- xã hội, thể hiện trên tất
cả các lĩnh vực. Với chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm
và nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của đất
nước, quê hương của các cấp ủy, chính quyền, đặc biệt việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo nên công tác giáo dục của Nam
Điền trong 5 năm qua có bước phát triển vượt bậc. Ngày 20/10/1999, UBND xã Nam
Điền đã ban hành Quy chế số 15/1999/QC-UB về công tác giáo dục, đào tạo, trong
đó chỉ rõ “Mọi công dân trong xã Nam Điền đều phải có nghĩa vụ học tập đúng
luật định và phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho con em mình học tập, tu
dưỡng trở thành người công dân hữu ích trong công cuộc phát triển xã hội theo
định hướng của Đảng”. Đội ngũ giáo viên được kiện toàn và củng cố về số lượng
và nâng cao chất lượng giảng dạy. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục được tu sửa
và xây dựng mới. Công tác tuyên truyền vận động toàn dân chăm lo đến sự nghiệp
giáo dục được đẩy mạnh. Hội đồng giáo dục và hội khuyến học xã được thành lập
với các hoạt động thiết thực như: tặng quà cho các thầy cô dạy giỏi, học sinh
học giỏi, các học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, các học sinh có
hoàn cảnh khó khăn… đã góp phần tích cực vào sự phát triển của ngành giáo dục ở
địa phương.Vì vậy, các lớp học, ngành học đã có bước phát triển ổn định. Chất
lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm hẳn. Kết quả
các kỳ thi chuyển lớp, chuyển cấp và thi học kỳ đạt tỷ lệ cao. Năm học 1996-
1997, tổng số học sinh của Nam Điền là 1.308 học sinh; trong đó có 8 lớp THCS với
325 học sinh và 26 lớp Tiểu học với 983 học sinh. Năm học 1998- 1999 có 1.449
học sinh; trong đó có 12 lớp THCS với 557 học sinh và 27 lớp Tiểu học với 892
học sinh và đã hạn chế được thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học.
Ngành học Bổ túc văn hóa vẫn duy trì tốt sỹ số,
học sinh có ý thức và trách nhiệm hơn đối với việc học. Trong năm 1999 đã có 56
học sinh tốt nghiệp lớp 9 bổ túc văn hóa và tiếp tục duy trì 3 lớp bổ túc văn
hóa.
Ngành học Mầm non còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở
vật chất trường lớp và đội ngũ giáo viên nhưng đã có nhiều cố gắng. Tháng
9/1995, xã Nam Điền tiếp nhận hai giáo viên là đồng chí Đinh Thị Hằng và đồng
chí Nguyễn Thị Khuyên về làm cán bộ chuyên môn và chuyên trách về giáo dục mầm
non. Ban đầu tình hình rất khó khăn, hai đồng chí vừa phải tìm hiểu về tình
hình trẻ em vừa phải lo tìm giáo viên, tìm nhà dân để thuê làm nhà nuôi dạy
trẻ. Năm học 1995- 1996, cả xã Nam Điền mới mở được 1 lớp học mầm non nhưng đến
năm học 1996- 1997 đã tăng lên 4 lớp với 74 trẻ và 8 cán bộ, giáo viên. Năm học
1997- 1998, mở được 6 lớp với 100 trẻ. Đến năm học 1998- 1999, nhà trường đã có
120 cháu và 11 cán bộ giáo viên. Năm 1998 là năm trường Mầm non bán công xã Nam
Điền chính thức được thành lập, đồng chí Nguyễn Thị Khuyên là Hiệu trưởng nhà
trường. Mặc dù trường Mầm non được thành lập nhưng lớp học vẫn phải thuê nhà
dân, trường chưa có cơ sở cố định. Để khắc phục khó khăn, nhà trường đã tích
cực vận động các ban ngành đoàn thể, phụ huynh học sinh hỗ trợ để mua sắm trang
thiết bị phục vụ việc học tập và nuôi ăn bán trú cho trẻ tại trường như: bàn
ghế, chăn chiếu, quạt điện, bình lọc nước… Vì vậy, số trẻ đến lớp ngày một
đông, năm 2000, nhà trường có 35 cán bộ, giáo viên và mở được 10 lớp học, trong
đó có 100 cháu được đảm bảo nuôi ăn bán trú tại trường.
Trong những năm 1996- 2000, công tác y tế khám
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cộng đồng đã đi vào hoạt động có nề nếp. Đội ngũ
cán bộ của trạm y tế thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
và y đức. Các chương trình y tế cộng đồng, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân
dân, phòng chống dịch bệnh và các chương trình Quốc gia về y tế được triển khai
đồng bộ. Công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ em ở các độ tuổi hàng năm đạt 97%;
trẻ em uống Vitamin A đạt 100%; trẻ em dưới 5 tuổi được khám định kỳ và theo
dõi bằng biểu đồ tăng lên; phụ nữ có thai được khám và tiêm phòng đạt 93%...
Các chương trình dân số- kế hoạch hóa gia đình
được tuyên truyền sâu rộng, góp phần giảm tỷ lệ người sinh con thứ ba từ 37%
(năm 1996) xuống còn 20% (năm 2000). Nhưng tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại tăng
dần, trung bình 5 năm 1996- 2000 là 1,76%.
Nguyên nhân chủ yếu là cơ cấu dân số của Nam Điền là cơ cấu dân số trẻ và tăng
theo cơ học, dân ở các địa phương khác tiếp tục về đây định cư, sinh sống.
Xác định đúng tầm quan trọng của công tác thông
tin tuyên truyền trong tình hình cách mạng hiện nay, Đảng ủy, UBND xã đã quyết
tâm đầu tư thay mới mạng lưới truyền thanh để chủ động hơn trong công tác tuyên
truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền
kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, các sự kiện chính trị quan trọng, các nhiệm
vụ của địa phương và tăng cường hiệu quả phục vụ nhân dân. Thời gian và thời
lượng tiếp phát được duy trì tốt. Cán bộ văn hoá, cán bộ Đài truyền thanh đã
biên soạn nhiều tin bài có chất lượng; kẻ vẽ nhiều pa nô, áp phích, băng rôn,
khẩu hiệu với các nội dung phong phú đã thu hút được sự quan tâm chú ý của quần
chúng nhân dân. Hoạt động thông tin tuyên truyền, văn nghệ thể thao đã phát
triển trở thành phong trào rộng khắp, được nhân dân nhiệt tình đón nhận, trở
thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội góp phần bài trừ các tệ
nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình hòa thuận hạnh phúc.
Thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, công tác
chính sách xã hội ngày càng được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính
quyền, đoàn thể. Trong nhiệm kỳ đã hoàn thành việc rà soát và đề nghị khen
thưởng cho các đối tượng có công trong các cuộc kháng chiến, xét miễn giảm các
khoản đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng đúng đối tượng cho các trường hợp có
hoàn cảnh khó khăn, tàn tật... Thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước đối
với gia đình thương binh liệt sỹ, các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội…
Ngoài ra còn tổ chức thăm hỏi, động viên, trợ cấp cho các đối tượng khó khăn
trong các dịp lễ, tết; phát động các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Lá lành
đùm lá rách”, xây dựng quỹ người cao tuổi, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ chăm sóc và
bảo vệ trẻ em, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt… qua đó khơi dậy ý thức
trách nhiệm, sự chia sẻ cảm thông của cộng đồng, góp phần xây dựng, củng cố
khối đoàn kết toàn dân.
Công tác xóa đói giảm nghèo bước đầu đã đem lại
hiệu quả từ việc tiếp nhận các loại vốn vay và các hình thức giúp nhau làm kinh
tế gia đình. Tuy nhiên tốc độ giảm hộ nghèo còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 1996
chiếm 30%, đến năm 2000 giảm xuống còn 23%.
Công tác an ninh quốc phòng và quân sự địa phương
luôn được quan tâm với phương châm “ổn định để phát triển, phát triển để tiếp
tục giữ vững ổn định xã hội”, ổn định tình hình an ninh chính trị và tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Do đó, Đảng ủy, UBND xã đã chỉ đạo kiện
toàn lực lượng công an xã, duy trì chế độ thường trực 24/24h, tuần tra, canh
gác, giao ban… đã ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm pháp luật.
Lực lượng công an thường trực được tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ, năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu đã dần dần đi
vào nề nếp theo đúng pháp luật. Sổ sách theo dõi đăng ký hộ khẩu, tạm trú, tạm
vắng, khai sinh, khai tử được ghi chép đầy đủ, chặt chẽ, kịp thời phát hiện các
đối tượng nghi vấn trong việc điều tra và xử lý vụ việc.
Công tác quốc phòng địa phương đã được triển khai
thực hiện nghiêm túc gắn với phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Xã đã
triển khai thực hiện tốt pháp lệnh dân quân tự vệ, tiến hành xây dựng và củng
cố kiện toàn lực lượng dân quân tự vệ, dân quân trực chiến đảm bảo chất lượng,
đủ về số lượng theo yêu cầu. Các đợt huấn luyện nghiệp vụ sẵn sàng chiến đấu,
tham gia hội thao được tổ chức tốt. Nam Điền luôn đi đầu hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ tuyển chọn gọi thanh niên nhập ngũ
hàng năm.
Do tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, tâm lý trong các tầng lớp
nhân dân; thực hiện Nghị quyết hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng bộ Nam
Điền luôn xác định công tác giáo dục chính trị tư tưởng là một nhiệm vụ trọng
tâm quan trọng; đã tổ chức học tập quán triệt nghiêm túc đầy đủ các các Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết Trung ương 5, Trung ương 6 (lần 1),
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiến
hành các bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với tập thể và cá nhân; lãnh
đạo triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác- Lê nin, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng vẻ vang của
Đảng, của dân tộc. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đã góp phần quan trọng
nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ đảng viên, củng cố vững chắc khối đoàn
kết thống nhất trong Đảng, nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi đảng viên. Nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được thực hiện nghiêm túc, quy chế
hoạt động của cấp ủy thường xuyên được bổ sung và duy trì tốt. Phương thức lãnh
đạo toàn diện của cấp ủy và các chi bộ có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ của địa phương.
Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của cấp ủy
Đảng, trong những năm qua tuy có thời gian biến động về tổ chức bộ máy cán bộ
nhưng sau khi được củng cố đã phát huy được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, ổn định
tình hình, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giải quyết có
hiệu quả các mặt yếu kém, củng cố được lòng tin của quần chúng nhân dân. Đặc
biệt, trong 3 năm 1998- 2000, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế,
xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về sản xuất nông nghiệp, cải tạo hệ thống
thủy lợi, san lấp mặt bằng, cải tạo nâng cấp đường giao thông, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi. Đã tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong nếp nghĩ, phong
cách lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cán bộ lãnh đạo, tinh thần trách nhiệm
của Đảng viên và tuyệt đại bị phận nhân dân trong xã; tạo hiệu ứng tích cực
trong đời sống xã hội.
Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của
Bộ Chính trị về “xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, ngày
12/10/1999, Đảng ủy xã Nam Điền đã ban hành Nghị quyết số 40/NQ-ĐU về việc
“lãnh đạo tổ chức thực hiện triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở”, trong đó chỉ
rõ mục tiêu: “Xây dựng được chế độ công khai, hình thức công khai tới nhân dân.
Chú trọng việc công khai về các khoản đóng góp cho Nhà nước và địa phương theo
quy định của pháp luật. Công khai những khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở
xã, HTX và thôn xóm”.
Trong 5 năm qua, Đảng bộ đã làm tốt công tác tổ
chức bộ máy và công tác tổ chức cán bộ, có sự bố trí sắp xếp lại cơ bản, đảm
bảo nâng cao phẩm chất đạo đức, chính trị, năng lực công tác. Tháng 3/1998, sau
khi một số đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ nghỉ công tác, bộ máy lãnh đạo của xã Nam
Điền được kiện toàn. Đồng chí Đoàn Ngọc Hà - Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện được Ban Thường vụ Huyện ủy điều động về tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ
và trực tiếp làm Bí thư BCH Đảng bộ xã Nam Điền, đồng chí Lại Cao Đỉnh được bầu
là Phó Bí thư - Chủ tịch HĐND xã – đồng thời là Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ; đồng
chí Trần Xuân Đại là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy - Chủ tịch UBND xã.
Gắn với công tác tổ chức và quy hoạch cán bộ, Đảng
bộ cũng rất quan tâm chú trọng tới công tác phát triển Đảng, bồi dưỡng và đào
tạo nguồn cán bộ kế cận. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã cử đi đào tạo trình độ
trung cấp 08 đồng chí gồm cả trung cấp lý luận chính trị và trung cấp chuyên
môn; 04 đồng chí sơ cấp quản lý nhà nước, kết nạp được 10 đảng viên mới.
Công tác kiểm tra luôn được xác định là nhiệm vụ
quan trọng trong chức năng lãnh đạo của Đảng. Trong nhiệm kỳ qua, Ủy ban kiểm
tra đã chủ động tiến hành công tác kiểm tra theo điều lệ Đảng và thực hiện tốt
các nhiệm vụ kiểm tra do cấp ủy giao, thường xuyên uốn nắn những biểu hiện sai
lệch về tư tưởng, ý thức của đảng viên, giải quyết tốt những vấn đề nổi lên ở
một số chi bộ. Vì vậy, trong nhiệm kỳ đã phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời
các vụ vi phạm lớn, góp phần củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng và
lòng tin của nhân dân.
BCH Đảng bộ đã tổ chức lãnh đạo thành công cuộc
bầu cử HĐND xã nhiệm kỳ 1999- 2004. HĐND xã đã tiến hành kiện toàn các chức
danh lãnh đạo HĐND, UBND xã, đồng chí Lại Cao Đỉnh được bầu giữ chức vụ Chủ
tịch HĐND xã, đồng chí Trần Xuân Đại- Ủy viên Thường vụ Đảng ủy được bầu giữ
chức vụ Chủ tịch UBND xã. Hoạt động của HĐND và UBND xã đã có những chuyển biến
tốt, phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ theo
quy định; bám sát các nghị quyết của Đảng để thể thế hóa và tổ chức thực hiện.
Chính quyền được công nhận đạt danh hiệu chính quyền vững mạnh (năm 2000).
Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể cũng được củng cố kiện toàn, nâng cao được chất
lượng hoạt động, đã chủ động phát huy được vị trí, kịp thời phản ánh những khó
khăn, phức tạp nảy sinh trong thôn xóm, những kiến nghị, đề xuất của nhân dân
để cấp ủy Đảng, chính quyền có chủ trương, biện pháp giải quyết phù hợp. Trong
năm 1999, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Nam Điền đã có nhiều hoạt động thiết thực:
vận động được 3.200.000 đồng ủng hộ Quỹ bảo trợ trẻ em; 1.700.000 đồng cho Quỹ
khuyến học, ủng hộ đồng bào miền Trung vượt kế hoạch chỉ tiêu.
Hội phụ nữ có rất nhiều cố gắng trong việc tập hợp
kết nạp hội viên và tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc
biệt là các chương trình về dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trẻ em, vấn đề trẻ em bỏ học và suy dinh dưỡng. Đến năm 2000, Hội phụ nữ xã Nam
Điền đã thu hút được 63,5% số chị em phụ nữ của toàn xã tham gia. Các câu lạc
bộ được thành lập đã thu hút được đông đảo chị em tham gia và tạo ra khí thế
thi đua sôi nổi thực hiện các chương trình công tác hội và tham gia tích cực các
phong trào và nhiệm vụ ở địa phương.
Từ một tổ chức yếu kém nhiều năm, đến năm 2000,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã được củng cố đi vào hoạt động có hiệu
quả, thu hút được đông đảo thanh niên tham gia (đến năm 2000 đã có 56% thanh
niên là Đoàn viên) và có một số hoạt động tích cực, quan tâm tới công tác giáo
dục thanh thiếu niên, nhi đồng.
Hội Cựu chiến binh thường xuyên duy trì nề nếp
sinh hoạt, tăng cường tuyên truyền đường lối chính sách, tổ chức các buổi nói
chuyện thời sự nhằm nâng cao nhận thức chính trị và bản lĩnh cách mạng cho cán
bộ, hội viên. Năm 1999, Hội Cựu chiến binh đã phối hợp tổ chức tốt kỷ niệm 55
năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 10 năm ngày thành lập Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Hội đã phát động phong trào tìm hiểu truyền thống và thu
hút hơn 300 người tham gia. Thông qua các hoạt động cụ thể thiết thực đó, cán
bộ, hội viên luôn được trau dồi phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và phát
huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, thể hiện là những Cựu chiến binh gương mẫu. Trong
5 năm, Hội đã kếp nạp thêm được 62 hội viên.
Hội Nông dân từng bước được kiện toàn, đổi mới nội
dung sinh hoạt, tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác hội; tăng cường phối hợp
chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp và phát
triển kinh tế hộ; thu hút ngày càng đông hội viên tham gia. Năm 1996, mới có 63
hội viên, đến năm 2000 tăng lên 416 hội viên, chiếm 33% số hộ nông nghiệp của
toàn xã.
Kết thúc thế kỷ XX, Đảng bộ xã Nam Điền lãnh đạo
nhân dân tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, tự tin bước vào thế kỷ
mới, thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm
2001), xây dựng quê hương Nam Điền ngày thêm giàu đẹp, phấn đấu vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
CHƯƠNG IV
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN
DÂN ĐỊA PHƯƠNG TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI – ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (2000-
2010)
1- Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp- nông thôn vững bước trong những
năm đầu của thế kỷ XXI (2000- 2005).
Đảng bộ và nhân dân Nam Điền bước vào thế kỷ XXI
trong bối cảnh nền kinh tế của đất nước, tỉnh Nam Định, huyện Nghĩa Hưng nói
chung và của xã nói riêng tiếp tục có bước phát triển vượt bậc trên tất cả các
lĩnh vực. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân tin tưởng và chấp hành tốt
các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; an ninh
chính trị ổn định; trật tự an toàn xã hội được giữ vững; đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, nâng lên rõ rệt.
Qua 25 năm tiến hành quai đê, lấn biển, thành lập
làng xã; đặc biệt sau 15 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo (1986 - 2000), 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định, phát
triển kinh tế- xã hội (1991-2000) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII của
Đảng. Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã đạt được những kết quả, thành tựu rất
quan trọng. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn, thử thách khắc
nghiệt của giai đoạn đầu khi thành lập (1978- 1985); từng bước ổn định sản xuất
và đời sống nhân dân; thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 1995); phát
triển mạnh mẽ và cùng cả nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có bước
tăng trưởng nhanh và liên tục (giai đoạn 1995 – 2000). Được sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ,
UBND huyện; cùng với sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng bộ và tinh thần
đoàn kết, nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân, Nam Điền đã có những
chuyển biến sâu sắc, toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa -
xã hội, quốc phòng – an ninh. Đảng bộ và nhân dân trong xã đã cùng nhau viết
lên những truyền thống tốt đẹp cho quê hương; cùng nhau cố gắng phấn đấu đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trên chặng đường xây
dựng và phát triển quê hương, hướng tới mục tiêu giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền cũng đứng
trước những khó khăn cả về chủ quan và khách quan như đời sống của nhân dân còn
gặp rất nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội
như điện, đường, trường, trạm, trụ sở…tuy đã được đầu tư xây dựng song vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Cơ
cấu kinh tế dịch chuyển chậm; tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ còn
nhỏ bé; sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Trong khi đó Nam
Điền là xã đầu sóng ngọn gió của huyện Nghĩa Hưng và tỉnh Nam Định, thường
xuyên phải chống chọi với mưa, bão, hạn hán, lũ lụt, nước mặn xâm lấn; tai tệ
nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; các hoạt động văn hóa- văn nghệ - thể dục
thể thao có bước phát triển nhưng kết quả đạt được chưa cao. Tỷ lệ trẻ em đến
tuổi được đưa đến nhà trẻ, mẫu giáo còn thấp; học sinh bỏ học, học sinh học hết
THCS không tiếp tục được học lên THPT còn khá nhiều; năng lực, trình độ chuyên
môn của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Tình trạng thiếu thống nhất,
thiếu dân chủ còn diễn ra. Đây là những thách thức lớn đòi hỏi Đảng bộ và nhân
dân Nam Điền phải đoàn kết, nỗ lực phấn đấu cùng nhau vượt qua, để đưa quê
hương bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày
22/5/2000 của Bộ Chính trị; các Chỉ thị, Kế hoạch, Hướng dẫn của Tỉnh
ủy Nam Định và Huyện ủy Nghĩa Hưng về việc tổ chức Đại
hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX;
trong hai ngày 21 và 22/9/2000, Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần thứ X (nhiệm kỳ
2000- 2005) đã được tổ chức. Tham dự Đại hội có 77 đảng viên thuộc 8 chi bộ,
trong đó có 7 đồng chí đảng viên dự bị. Đại hội đã tiến hành thảo luận, tham
gia ý kiến đóng góp vào dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng, như Báo cáo chính trị; Báo cáo chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội 10 năm 2001- 2010; Sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng; tham gia đóng góp
ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ huyện lần thứ XX trình tại
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI.
Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
nhiệm kỳ 1995-2000, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành khóa IX trình Đại hội
Đảng bộ xã lần thứ X, nêu rõ: “Đảng bộ và nhân dân xã Nam Điền qua 5 năm phấn
đấu tuy có nhiều mặt gặp khó khăn, một số mặt không được ổn định, nhưng nhìn
nhận đánh giá một cách khách quan, tổng thể thì trong nhiệm kỳ vừa qua Đảng bộ
và nhân dân xã đã đạt được nhiều kết quả và thành tích vượt bậc; nhất là về
năng suất, sản lượng lương thực, nuôi trồng hải sản; các hoạt động y tế, giáo dục
có bước phát triển mới; cơ sở hạ tầng được tập trung xây dựng; an ninh chính
trị- trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện”. Đánh giá về công tác xây dựng Đảng,
Chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội; Báo cáo chính trị chỉ rõ:
“quá trình giáo dục chính trị tư tưởng đã nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên; củng cố tốt hơn sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng về ý chí và hành
động, nêu cao ý thức trách nhiệm của mọi đảng viên trong việc chấp hành Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng
được thực hiện nghiêm túc, quy chế hoạt động của cấp ủy từng bước được bổ sung
và duy trì tốt. Phương thức lãnh đạo toàn diện của cấp ủy và các Chi bộ có
nhiều đổi mới, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo các
nhiệm vụ chính trị… Xây dựng Đảng bộ trong sạch- vững mạnh, chính quyền vững
mạnh, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị tiên tiến và tiên tiến xuất sắc.
Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp được thành lập, kiện toàn và đi vào hoạt
động. Quan tâm lãnh đạo triển khai các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc
người cao tuổi và tăng cường lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác chăm sóc
giáo dục trẻ em thanh thiếu niên…”.
Đại hội cũng nghiêm túc đánh giá những khuyết
điểm, tồn tại của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ vừa qua trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội ở địa
phương; trong công tác xây dựng Đảng, Chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính
trị xã hội và chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Phát huy những thành
tích, kết quả đã đạt được; khắc phục những tồn tại, khuyết điểm, yếu kém; từ
tình hình thực tế địa phương, đơn vị và xu thế chung của cả nước, của tỉnh, của
huyện; Đại hội đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cho nhiệm kỳ
2000- 2005. Trong đó, mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng Đảng bộ trong
sạch vững mạnh được Đại hội đặc biệt quan tâm, xác định là khâu đột phá trong
nhiệm kỳ tới. Đại hội xác định: “Xây dựng Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời
kỳ mới. Tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị
tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân; tổ chức quán triệt và học tập đầy đủ các
Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng…”
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa X
(nhiệm kỳ 2000- 2005) gồm 9 ủy viên và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ
Huyện lần thứ XXI. Ngày 06 tháng 10 năm 2000, tại kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp
hành Đảng bộ xã; Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ Đảng ủy xã gồm 3 đồng chí.
Bầu đồng chí Lại Cao Đỉnh giữ chức vụ Bí thư BCH Đảng bộ xã ; đồng chí Trần Xuân Đại giữ chức vụ
Phó Bí thư- Chủ tịch UBND xã; đồng chí Trịnh Văn Miết- Ủy viên Thường vụ Thường
trực Đảng. Ban Chấp hành cũng bầu Ủy ban kiểm tra gồm 3 đồng chí; đồng chí
Trịnh Văn Miết làm Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã (nhiệm kỳ 2000 - 2005), bước sang năm 2000, năm đầu
thực hiện kế hoạch 5 năm (2000- 2005) và chiến lược phát triển kinh tế xã hội
10 năm (2001- 2010), ngay từ đầu năm, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã phải đối
mặt với những khó khăn khắc nghiệt do thiên nhiên, thời tiết gây ra. Sản xuất
vụ chiêm xuân thời tiết diễn biến hết sức phức tạp: rét đậm, rét hại kéo dài
làm cho diện tích mạ chiêm xuân của xã chết tới 80% khiến nhân dân hết sức
hoang mang, lo lắng. Trước tình hình đó, Đảng ủy, UBND, HTX nông nghiệp khẩn
trương chỉ đạo bà con xã viên khắc phục khó khăn, che chắn, bảo vệ những diện
tích mạ còn lại; đồng thời tiến hành gieo lại diện tích mạ bị chết để kịp thời
vụ. Kết quả, chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, trước sự chỉ đạo sát sao của
Đảng ủy, UBND và sự nỗ lực cố gắng của bà con, toàn bộ diện tích 263 ha của xã
được cấy xong đúng tiến độ và đảm bảo về mặt kỹ thuật; trong đó giống lúa mới
chiếm 85- 90% diện tích. Vụ chiêm xuân còn tiếp tục gặp phải khó khăn lớn, tình
hình sâu bệnh diễn biến hết sức phức tạp; ốc bươu vàng phát triển mạnh; nạn
chuột phá hại gia tăng… ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
của địa phương. Để bảo vệ sản xuất, bên cạnh việc hướng dẫn cho nông dân cách
chăm sóc lúa chiêm xuân, phòng trừ sâu bệnh; Đảng ủy, UBND xã phát động nhân
dân tích cực tham gia diệt chuột bằng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau. Đặc
biệt, ngày 30/01/2000; UBND xã ra Quyết định về việc giao chỉ tiêu diệt chuột
cho 10 xóm. Đến cuối năm 2000, nhân dân trong xã diệt được hàng trăm ngàn con
chuột, góp phần tích cực vào thắng lợi của vụ lúa chiêm xuân.
Vượt qua những khó khăn, vụ chiêm xuân năm 2000,
nhân dân xã Nam Điền thu được thắng lợi lớn trên các mặt: diện tích, năng suất,
tổng sản lượng. Diện tích gieo cấy 263 ha, năng suất lúa bình quân đạt 59 tạ/ha,
tổng sản lượng đạt 1.540 tấn, đạt 62,8% kế hoạch cả năm. Đây là vụ chiêm xuân
thắng lợi lớn nhất từ trước đến nay. So với vụ chiêm xuân, vụ mùa có nhiều
thuận lợi hơn; do đó mà tổng diện tích gieo cấy lúa mùa đạt 271 ha; sản lượng
thu được 1.355 tấn thóc; những giống lúa mới, có năng suất cao, phù hợp với
đồng đất địa phương cũng được Hợp tác xã nông nghiệp chỉ đạo đưa vào gieo cấy
đạt từ 60- 65% diện tích. Thắng lợi của vụ lúa mùa góp phần đưa tổng sản lượng
lương thực của xã cả năm đạt 2.895 tấn; năng suất bình quân cả năm đạt 109 tạ/ha-
gần bằng các địa phương khác trong huyện. Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm;
khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản tiếp tục có những bước phát triển
mạnh mẽ. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác của địa phương cũng thu được
những kết qủa tích cực: diện tích cây màu 58 ha, đạt 100% diện tích; tổng sản
lượng cây màu quy thóc đạt 55% kế hoạch cả năm. Ngành chăn nuôi gia súc, gia
cầm tiếp tục có bước phát triển ổn định, thường xuyên duy trì tổng đàn gia cầm
từ 7.000- 7.500 con; đàn trâu, bò 127 con, đàn lợn 1.300 con.
Nối tiếp thành công của những năm trước, 2 năm
2001- 2002 mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường; nhưng với tinh
thần đoàn kết, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã tiếp tục gặt hái được
nhiều thành công trong các lĩnh vực của đời sống, nhất là trong hoạt động phát
triển kinh tế; ổn định đời sống nhân dân; tập trung xây dựng cơ bản; phát triển
giao thông thủy lợi. Với sự cố gắng trong suốt những năm vừa qua để cải tạo
đồng ruộng, thau chua rửa mặn; hợp tác xã tư vấn cho xã viên áp dụng khoa học
kỹ thuật, giống lúa mới vào sản xuất; đến năm 2001 năng suất lúa đạt bình quân
từ 97- 111 tạ/ha/năm, có những thửa đạt 125 tạ/ha/năm. Những giống lúa mới có
năng suất cao, phù hợp với đồng đất địa phương như tạp giao, lưỡng quảng,
Q5…được đưa vào sản xuất chiếm tới 85- 90% diện tích. Toàn bộ diện tích đồng
ruộng được đưa vào sản xuất, không còn tình trạng ruộng bỏ hoang như một vài
năm trước. Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt từ 1.700- 2.000 tấn. Cây rau
màu được đưa vào trồng ở khắp các xóm, trong đó tập trung ở các xóm 2, 3, 6, 8,
9. An ninh lương thực từng bước bảo đảm nên ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm
phát triển mạnh mẽ. Năm 2002, đàn gia cầm đã tăng lên 24.000 con; đàn lợn 2.600
con; đàn trâu bò thường xuyên duy trì ổn định từ 150- 170 con, cơ bản đảm bảo
được sức kéo trong sản xuất nông nghiệp.
Tiếp tục đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Ban Chấp hành TW Đảng
lần thứ 5 khóa IX và thực hiện các mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI
nhiệm kỳ (2001-2005) đề ra; ngày 06/8/2002, Tỉnh ủy Nam Định ban hành Nghị
quyết số 02- NQ/TU về việc dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp. Đây là
Nghị quyết đặc biệt quan trọng nhằm từng bước đưa nền sản xuất nông nghiệp của
tỉnh lên tầm cao mới theo hướng sản xuất hàng hóa; từ đó tác động tích cực đến
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế; phân công lại lao động; nâng cao thu nhập cho
nông dân. Ngày 05/11/2002, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nghĩa Hưng cũng ban hành
Nghị quyết số 16-NQ/HU về việc tiến hành công tác dồn điền đổi thửa đất sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện. Thực hiện chủ trương này, Ban Chấp hành
Đảng bộ xã tập trung cao độ công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ dồn điền đổi
thửa tại địa phương. Đảng ủy xây dựng Nghị quyết số 22 về tập trung lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ dồn điền đổi thửa đất trong sản xuất nông nghiệp. Theo đó,
mục tiêu cần đạt được khi dồn điền đổi thửa được Đảng ủy xã xác định: thực hiện
dồn điền đổi thửa để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, tạo ra ô thửa có
diện tích lớn hơn, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đáp ứng yêu cầu
sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển toàn diện trong sản xuất nông nghiệp.
Tạo cơ hội để các hộ sử dụng đất chuyển nhượng đất đai cho nhau; hình thành
tích tụ ruộng đất để sản xuất theo mô hình trang trại, các vùng chuyên canh cây
trồng, con nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa.
Để thực hiện mục tiêu này, nguyên tắc thực hiện
được Đảng ủy xã đưa ra là: dồn điền đổi thửa phải đảm bảo đúng luật, đúng sự
chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp
ủy Đảng, chính quyền, sự tuyên truyền vận động của các đoàn thể, tổ chức xã
hội; tạo điều kiện cho các hộ sử dụng đất được bàn bạc dân chủ, công khai để
hiểu rõ và trở thành ý thức tự nguyện, thực hiện tốt theo những chủ trương lớn
của Nhà nước và định hướng kế hoạch của địa phương. Thực hiện chuyển đổi trên
cơ sở diện tích các hộ đang sử dụng, đã được cấp bìa đỏ, việc dồn điền đổi thửa
phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa, trên cơ sở phân định rõ các vùng theo Đề án chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy hải sản đã được
các cấp có thẩm quyền phê duyệt: nuôi thủy hải sản vùng 210 ha phía Nam đường
phân Tùng đã có dự án và vùng phía Bắc đường phân Tùng tiếp tục trồng lúa để
chờ hướng chuyển đổi lâu dài. Quá trình dồn điền đổi thửa phải tạo mọi điều
kiện cho các hộ sử dụng đất được thực hiện các quyền theo pháp luật, không làm
thay đổi mục đích sử dụng đất. Ban Chấp hành Đảng bộ xã cũng đã có quyết định
thành lập Ban Chỉ đạo dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp do đồng chí Bí
thư Đảng ủy trực tiếp làm Trưởng ban. Các Chi bộ cũng họp ra Nghị quyết lãnh
đạo. Các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, các thôn xóm cũng tích cực
tuyên truyền vận động hội viên, đoàn viên của mình tự giác, tích cực hưởng ứng
chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước. Do tập trung cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo
và công tác chuẩn bị được tiến hành chu đáo, chỉ trong một thời gian ngắn, từ
tháng 11/2002 đến tháng 2/2003, xã Nam Điền đã hoàn thành xong công tác dồn
điền đổi thửa. Kết quả, từ bình quân mỗi hộ có 3-4 thửa ruộng ở hai, ba vùng;
sau dồn điền đổi thửa bình quân chỉ còn 1,1 thửa/hộ, đảm bảo tiện canh, tiện
cư, liền vùng ruộng của từng xóm. Kết quả này là một thành tựu to lớn được thực
hiện triệt để, hạn chế tối đa manh mún đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Dồn
điền đổi thửa năm 2003 ở Nam Điền như một cuộc cách mạng về đất đai; không ít
những khó khăn, phức tạp làm cản trở công tác lãnh đạo, chỉ đạo vì xuất hiện tư
tưởng cào bằng ai cũng phải có ruộng xấu, ruộng tốt nhưng cuối cùng mục tiêu
đạt được là rất to lớn và toàn diện. Kết quả này tạo điều kiện cho nhân dân
tích tụ ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp; là tiền đề cho quá trình cơ giới hóa nông nghiệp, là điều kiện
thuận lợi để tiếp tục tăng cao năng suất, sản lượng trên mặt trận phát triển
kinh tế nông nghiệp của địa phương trong những năm tiếp theo.
Sau khi hoàn thành thắng lợi chủ trương dồn điền
đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền tập trung mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương. Do đó, năm 2003 đã đánh dấu
là năm thắng lợi toàn diện trên các mặt phát triển kinh tế - xã hội của Nam
Điền, nhất là trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Tổng diện tích cấy lúa 2 vụ
của xã đạt 522,88 ha, năng suất lúa đạt 111 tạ/ha/năm; tổng sản lượng lúa cả
năm đạt 2.886 tấn- năng suất đạt cao nhất từ trước đến nay. Diện tích cây màu
phát triển lên tới 82 ha, đạt 178% so với cùng kỳ năm trước, các xóm 2, 6, 8, 9
tiếp tục khẳng định lợi thế về phát triển cây rau màu. Một số loại cây rau màu
cho năng suất và giá trị cao tiếp tục được đưa vào trồng đại trà như cải bắp, su
hào, cà chua… Chăn nuôi tiếp tục phát triển mạnh: đàn gia cầm có 23.000 con;
đàn lợn có 3.500 con; đàn trâu bò 252 con, đạt 183% so với cùng kỳ năm trước.
Các hoạt động khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản phát triển vững
chắc. Tổng diện tích nuôi trồng thủy hải sản cả năm đã đạt 180 ha; trong đó
nuôi nước lợ, mặn 90 ha (tăng 20 ha so với năm trước); nuôi ngao vạng ngoài bãi
bồi 30 ha; nuôi tôm, cua, cá các loại 60 ha. Hoạt động khai thác thủy sản gần
bờ và xa bờ của ngư dân trong xã tiếp tục được duy trì, tăng sản lượng khai
thác. Tổng sản lượng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản đạt 1.030
tấn; đem lại tổng giá trị cho nhân dân ước đạt 14.605 triệu đồng. Với kết quả
này, ngành khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản tiếp tục khẳng định là
ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách địa
phương; góp phần trực tiếp, quan trọng vào việc nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống nhân dân.
Năm 2003 là năm đánh dấu nửa chặng đường Đảng bộ
lãnh đạo nhân dân địa phương triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã
lần thứ X (nhiệm kỳ 2000- 2005) và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Ngày 05/7/2003,
Ban Chấp hành Đảng bộ xã tổ chức Hội nghị kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Ban Chấp hành trong nửa nhiệm kỳ vừa qua. Trong những thành tựu của Đảng bộ và
nhân dân đã đạt được, thành tựu nổi bật nhất đó là Đảng ủy, UBND xã đã lãnh đạo
nhân dân đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tập trung phát triển
sản xuất nông nghiệp ổn định 2 vụ lúa, đưa được ngành khai thác, đánh bắt, nuôi
trồng thủy hải sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương; tích cực
san lấp, cải tạo mặt bằng, củng cố hệ thống tưới tiêu đồng ruộng kênh mương;
thực hiện thành công dồn điền đổi thửa. Đảng ủy chủ trương cho dân hợp đồng san
lấp tất cả diện tích mặt nước, sông hồ tự nhiên ngoài đồng (thời hạn 7 năm từ
năm 2003-2009) không thu sản để mở mang tăng diện tích đất canh tác và cải tạo
mặt bằng (tổng diện tích được nhân dân cải tạo lên tới trên 10ha). Việc áp dụng
khoa học kỹ thuật, giống mới có năng suất cao vào gieo cấy đã đưa năng suất
bình quân của địa phương từ 109 tạ/ha năm 2000
lên đến 111 tạ/ha vào năm 2003. Bình quân lương
thực đầu người đạt 420 kg/năm, cơ bản giải quyết xong hộ đói, hộ nghèo giảm
mạnh, từng bước ổn định an ninh lương thực tại địa phương. Hoạt động xây dựng
cơ bản, giao thông thủy lợi cũng được tập trung phát triển. Xã đã vận động nhân
dân bỏ tiền của, ngày công đào đắp, cải tạo nâng cấp hệ thống đường dong thôn
xóm, hệ thống tưới tiêu phục vụ sản xuất. Trong giai đoạn này nhiều công trình
xây dựng cơ bản đã được triển khai và hoàn thành với tổng giá trị thực hiện đạt
xấp xỉ 1,5 tỷ đồng. Đây là những nỗ lực, cố gắng đáng ghi nhận của Đảng bộ và
nhân dân xã nhà trong nửa đầu của nhiệm kỳ 2000- 2005.
Năm 2005, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền tiếp tục
nêu cao tinh thần đoàn kết, tập trung mọi nguồn lực hoàn thành mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội; hoàn thành các nhiệm vụ mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội năm 2005 góp phần quan trọng phấn
đấu hoàn thành kế hoạch 5 năm (2001-2005). Tuy nhiên đây lại là năm chịu ảnh
hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh. 10 năm qua, từ năm 1996 đến năm 2005
chưa năm nào hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông
nghiệp lại gặp nhiều khó khăn như năm 2005. Sản xuất vụ chiêm xuân, đầu vụ rét
đậm, rét hại kéo dài, giữa vụ thời tiết nắng nóng bất thường lại không có mưa;
độ mặn lấn sâu; nước đầu nguồn không đủ để tưới tiêu, thau chua rửa mặn; trạm
bơm không cung cấp đủ nước…đã làm cho diện tích lúa chết đầu vụ chiếm tới trên
50% diện tích gieo cấy của xã; số còn lại phải dặm đi, cấy lại nhiều lần. Dịch
cúm gia cầm bùng phát mạnh mẽ vào những tháng cuối năm 2004, nhất là 6 tháng
đầu năm 2005 đã làm cho đàn gia cầm của xã giảm mạnh. Trong năm, nhân dân trong
xã phải đối mặt với 3 cơn bão lớn đổ bộ vào: bão số 2, số 6; số 7. Đặc biệt cơn
bão số 7 (tên quốc tế là Damrey) mạnh trên cấp 12- cơn bão mạnh nhất kể từ năm
1996 đến 2000- đổ bộ vào bờ biển Nghĩa Hưng ngày 27/9; trong khi đê biển Nghĩa
Hưng thời điểm lúc này chỉ chịu được bão mạnh cấp 8, cấp 9 đã gây hậu quả nặng
nề cho nhân dân xã Nam Điền nói riêng và nhân dân các xã ven biển tỉnh Nam Định
nói chung. Vụ mùa, do ảnh hưởng của bão, diện tích, năng suất, sản lượng lúa và
hoa màu giảm đáng kể; nhiều diện tích không được thu hoạch; phần lớn diện tích
nuôi trồng thủy hải sản của bà con nhân dân mất trắng do ao, đầm bị vỡ hoặc
nước tràn bờ làm tôm, cua, cá đi hết. Hậu quả nặng nề của thiên tai, dịch bệnh
làm cho công tác đảm bảo an ninh lương thực của xã gặp nhiều khó khăn. Năm
2005, lương thực bình quân đầu người của xã chỉ còn 280 kg/người, giảm 140 kg/
người/năm so với năm 2003.
Hoạt động khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải
sản ngày càng phát huy lợi thế và khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của địa
phương. Tận dụng thế mạnh là xã ven biển, có bãi bồi rộng hàng ngàn hécta, thuận lợi cho các hoạt động khai thác,
đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản; hàng năm nhân dân Nam Điền quan tâm đẩy mạnh
đầu tư nuôi trồng, đánh bắt tự nhiên, tạo công ăn việc làm và mang lại thu nhập
cao. Nhờ đó mà kinh tế hộ gia đình trong những năm này phát triển nhanh chóng,
nhiều gia đình nhờ vào nguồn thu từ các hoạt động liên quan đến khai thác, đánh
bắt, nuôi trồng thủy hải sản mà xây dựng, chỉnh trang, tu sửa được nhà cửa; mua
sắm được các phương tiện hiện đại phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của
gia đình và cá nhân.
Đảng bộ đã xác định lĩnh vực khai thác, đánh bắt,
nuôi trồng thủy hải sản là khâu đột phá để đưa kinh tế của địa phương đi lên, góp
phần trực tiếp để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nam
Điền có điều kiện rất thuận lợi và phù hợp với việc nuôi trồng thủy hải sản;
hơn nữa lại gần vùng trung tâm nuôi trồng thủy hải sản của huyện; là nơi thuận
tiện cho cung ứng các loại con giống và tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi
trồng. Đặc biệt, từ những năm 1992- 1993 trở lại đây việc nuôi trồng thủy sản
tự phát đem lại nguồn thu lớn cho nhân dân nhưng cũng còn nhiều tồn tại, khó
khăn. Để khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của địa phương, được sự ủng hộ của
cấp trên, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã xây dựng Nghị quyết về việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp từ trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng
thủy hải sản. Đến tháng 12/2001, UBND xã xây dựng Báo cáo luận chứng kinh tế
của Dự án. Toàn bộ diện tích vùng phía Bắc đường phân Tùng sẽ là diện tích
trồng lúa. Diện tích phía Nam đường phân Tùng chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi
trồng thủy sản. Tổng diện tích tự nhiên vùng dự án là 209,68 ha; diện tích mặt
nước ao nuôi 128,6ha. Tổng kinh phí của Dự án là 14,7 tỷ đồng. Được sự hỗ trợ
của cấp trên, UBND xã sẽ xây dựng mới 2 trạm biến áp số 3 và số 4; hoàn thiện
đường dây tải điện phục vụ điện sinh hoạt cho nhân dân và mở rộng phạm vi phục
vụ cho vùng nuôi trồng; tiến hành rải nhựa đường liên xã từ chợ Nam Điền ra Ô4
với chiều dài 4km; rải đá cấp phối đê tả Đáy; xây dựng trạm bơm cấp nước cho
vùng sản xuất lúa phía Bắc đường phân Tùng; mở rộng, tôn cao đường phân Tùng là
đường phân cách giữa 2 vùng sản xuất; nâng cấp, cải tạo các tuyến đường trục
nối với đường phân Tùng và cải tạo đường Nam sông Tiêu.
Tuy nhiên do chưa làm tốt công tác tuyên truyền,
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ yêu cầu, lợi
ích của Dự án, chưa thật sự đồng thuận trong thực hiện, nên dự án đã thực hiện
được 1/2 số hạng mục công trình, số hạng mục công trình
còn lại phải tạm dừng thực hiện; về diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng được
37 ha thuộc vùng Băng 6 Ô2- Ô3, hiện nay đang sản xuất ổn định, hiệu quả kinh
tế cao.
Cùng với hoạt động sản xuất nông nghiệp; các hoạt
động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông thủy lợi cũng
có bước phát triển mới. Nếu như trước năm 2000, hoạt động sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, thương mại dịch vụ còn nhỏ bé, phát triển chậm thì năm 2003, tổng
giá trị sản xuất của ngành này đã đạt 970 triệu đồng. Và đến năm 2005, tổng giá
trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của xã đạt 2.100 triệu đồng (tăng 2,2 lần so
với năm 2003).
Để phát triển giao thông thủy lợi và xây dựng cơ
bản, trong nhiệm kỳ 2000- 2005, Đảng ủy, UBND xã tập trung lãnh đạo phát động
nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của, ngày công để tu sửa và nâng cấp các đường
dong, ngõ xóm. Năm 2000, tổng khối lượng đào đắp được hơn 2.500 m3,
với hàng nghìn ngày công. Trong 2 năm 2001- 2002, tổng khối lượng thực hiện lên
tới 39.900 m3; riêng năm 2001 lượng đào đắp lên tới 22.900 m3.
Tiêu biểu trong phong trào này có nhân dân xóm 4- đã cải tạo và rải đá cấp phối
được hơn 300 m; nhân dân xóm 10 cải tạo, nâng cấp được hơn 1000 m. Cùng với
việc phát động nhân dân tự nguyện nâng cấp, tu sửa đường dong thôn xóm; được sự
giúp đỡ của cấp trên UBND, xã trích một phần ngân sách tiến hành thi công và
hoàn thiện rải đá cấp phối 2 tuyến đường trục Ô1- Ô2 và Ô3- Ô4 với chiều dài
hơn 2km; xây dựng hoàn thiện và đưa vào sử dụng 2 cầu vượt sông Tiêu bảo đảm
cho việc đi lại của nhân dân. Được UBND huyện hỗ trợ 1 phần kinh phí, xã đầu tư
rải đá cấp phối hơn 1000m đê tả Đáy; cải tạo và nâng cấp chợ Nam Điền; quy
hoạch và tiến hành vượt mặt bằng khu chân chòi quan sát chuẩn bị cho việc xây
dựng trường Trung học cơ sở; khảo sát và nâng cấp khuôn viên trường Tiểu học. Một
số công trình xây dựng phục vụ đời sống dân sinh cơ bản hoàn thành và đưa vào
sử dụng như chợ Nam Điền; vượt lập xong mặt bằng chợ Cống Tiêu- làm nơi mua bán
thủy hải sản của nhân dân một số xã như Nam Điền, Rạng Đông, Nghĩa Hải; triển
khai xây dựng và hoàn thành nhà học cao tầng trường THCS, tổng giá trị xây dựng
gồm cả các công trình phụ trợ trên 800 triệu đồng từ ngân sách xã và đóng góp
của nhân dân.
Năm 2003, Đảng ủy, UBND đã khởi công xây dựng 2
trạm biến áp tại xóm 6 và xóm 9 với tổng giá trị 964 triệu đồng; triển khai xây
dựng trường Mầm non khu A- 942 triệu đồng và điểm trường Mầm non khu B 650
triệu đồng (khu vực xóm 7) hoàn thành vào tháng 6/2004; xây dựng 1 trạm bơm trị
giá 220 triệu đồng; cải tạo và nâng cấp các công trình như đường đê tả Đáy;
đường trục xóm 10; cầu xuống đồng xóm 8, 9… Năm 2005, UBND xã tiếp tục triển
khai xây dựng, hoàn thành gói thầu số 1 của Dự án nuôi trồng thủy hải sản; triển
khai lập dự án xây dựng công trình Trạm y tế xã quy mô 2 tầng với tổng giá trị
798 triệu đồng, năm 2006 đưa vào sử dụng. Ngoài ra, xã còn tập trung xây dựng,
sửa chữa các công trình giao thông thủy lợi đầu mối; đê, kè, đường WB2; đào
đắp, nạo vét kênh mương nội đồng và một số công trình công cộng khác phục vụ
sản xuất và đời sống dân sinh.
Là xã ven biển, hàng năm thường xuyên chịu ảnh
hưởng nặng nề của bão lụt, do đó công tác phòng chống lụt bão năm nào cũng được
Đảng ủy, UBND xã đặc biệt quan tâm như trồng cây chắn bão; thường xuyên kiểm
tra, ấp trúc đê, kè, thực hiện phương châm 4 tại chỗ, diễn tập các biện pháp phòng chống
lụt bão…. Bởi vậy, trong cơn bão số 7 năm 2005, công tác phòng chống bão được
thực hiện có hiệu quả, nhân dân được sơ tán ra khỏi vùng nguy hiểm, không để
xảy ra thiệt hại nào về người và giảm được đến mức thấp nhất thiệt hại về vật
chất do bão gây ra. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm lớn để Đảng bộ và nhân
dân Nam Điền đối phó với bão, lụt có thể xẩy ra với cường độ mạnh hơn. Các mặt
công tác khác như quản lý đất đai, tín dụng vay vốn ngày càng đi vào nề nếp
chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân yên tâm đầu tư phát triển kinh
tế.
Công tác giáo dục có bước phát triển vượt bậc so
với những năm trước cả về đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị lẫn chất lượng
các ngành học, cấp học. Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, đến năm 2005, xã đã xây
dựng cơ bản xong hệ thống trường học ở 3 cấp học, ngành học tương đối khang
trang, phục vụ cho nhu cầu học tập của con em địa phương. Tình trạng học sinh
bỏ học, học 3 ca, học nhờ nhà dân đã cơ bản được xóa bỏ. Mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng ngày ngày hàng nghìn con em Nam Điền vẫn cắp sách đến trường, hăng
say học tập. Trường Mầm non đã cơ bản huy động được các cháu đến các lớp mẫu
giáo, nhà trẻ đúng độ tuổi và tổ chức ăn trưa, nghỉ ngơi tại trường cho các
cháu. Ở bậc Tiểu học và Trung học cơ sở, việc duy trì sỹ số học sinh được đảm
bảo và chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá, giỏi,
học sinh thi học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh đạt giải cao ngày càng nhiều. Trường
Tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức 1 năm 2002. Số học sinh hoàn
thành chương trình bậc Tiểu học hàng năm vào học lớp 6 đều đạt 100%. Số học sinh tốt nghiệp
THCS hàng năm cũng đều đạt mức cao từ 98- 100%. Các lớp học bổ túc thường xuyên
được duy trì và là một hình thức phù hợp để xóa tình trạng mù chữ và nâng cao
dân trí. Nếu như trước đây con em Nam Điền chỉ học hết Tiểu học hoặc THCS là
nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình thì nay số học sinh vào các trường THPT, các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp ngày càng nhiều. Đến năm 2005, học sinh của
Nam Điền tốt nghiệp THCS vào học THPT đạt 35%, số học sinh đỗ vào các trường
Đại học, Cao đẳng đạt 31 em. Công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã về giáo dục- đào
tạo được đặc biệt quan tâm đã tạo ra sự chuyển biến lớn trong nhận thức; từ đó
đã có những đóng góp tích cực vào kết quả giáo dục- đào tạo của xã.
Công tác y tế, dân số- kế hoạch hóa gia đình, chăm
sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân tiếp tục được Đảng ủy, UBND và các ngành coi
trọng. Năm 2000, Trạm y tế xã được chuyển ra vị trí mới, thuận tiện cho việc
khám chữa bệnh của nhân dân. Đội ngũ cán bộ được tăng cường gồm 2 bác sỹ, 1 nữ
hộ sinh, mạng lưới y tế thôn đội được củng cố 10/10 thôn đội có cộng tác viên y
tế. Công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, đảm bảo vệ sinh phòng bệnh, khám
chữa bệnh và phục hồi chức năng được Trạm làm tốt. UBND xã thường xuyên lãnh
đạo Trạm y tế, cán bộ phụ trách công tác dân số phối hợp với Đài truyền thanh
làm tốt công tác tuyên truyền phục vụ cho nhiệm vụ phòng chống dịch bệnh và
chữa bệnh cho nhân dân, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Chương trình
Quốc gia về tiêm chủng mở rộng cho các cháu trong độ tuổi, chương trình chống
trẻ suy dinh dưỡng và chương trình phòng chống đau mắt, chương trình y tế nha
học đường…, công tác tuyên truyền vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình được
thực hiện tốt. Đặc biệt, ngày 03/5/2001 Đảng ủy xã ban hành Nghị quyết số 100-
NQ/ĐU về việc đẩy mạnh thực hiện chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ
KHHGĐ từ năm 2001 và Nghị quyết số 14- NQ/ĐU, ngày 10/8/2003, về việc lãnh đạo
công tác y tế đạt chuẩn giai đoạn 2001- 2010 tạo điều kiện thuận lợi cho việc
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác y tế, KHHGĐ của địa phương.
Công tác văn hóa, văn nghệ- thể dục thể thao được
Đảng ủy và chính quyền tập trung chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện xây dựng
ở các làng, xóm, trường học, trạm y tế và gia đình đạt tiêu chuẩn nếp sống văn
hóa. Nhân dân được tổ chức tuyên truyền vận động thực hiện hương ước, quy ước,
quy chế làng, xóm mà nhân dân đã bàn và xây dựng lên, đồng thời thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các hoạt động văn
hóa - văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì thường xuyên nhằm thu hút thanh,
thiếu niên, người cao tuổi và nhân dân tham gia. Thực hiện Kế hoạch số
01/KH-UB, ngày 13/5/2005 của UBND xã; từ ngày 19- 30/5; Đại hội thể dục thể
thao xã Nam Điền lần thứ 5 diễn ra thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia góp phần nâng cao sức khỏe, hoàn thiện thể chất, giáo dục đạo đức lối
sống lành mạnh, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân và
chọn được những cá nhân có thành tích cao để đi tham dự Đại hội TDTT huyện lần
thứ 5 năm 2005.
Thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng- an ninh,
hàng năm Đảng ủy đều ra Nghị quyết về tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng địa phương; Nghị quyết về lãnh đạo công tác bảo đảm ANTT-
ATXH, thường xuyên tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng nhằm chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch chống phá cách mạng Việt Nam. Thế trận “chiến tranh nhân dân”, xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ và tổ chức huấn luyện hàng năm được củng cố, đạt
hiệu quả cao. Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ được coi trọng và làm
tốt. Chỉ tiêu giao quân hàng năm luôn hoàn thành, đủ về số lượng, đảm bảo chất
lượng. Đảng ủy thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác giáo dục, tập huấn
kiến thức quốc phòng- an ninh cho cán bộ đảng viên, chăm lo nâng cao chất lượng
tổng hợp cho lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên theo pháp lệnh; quan tâm
chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp để nâng cao nhận thức, sẵn sàng nhận nhiệm
vụ đảm bảo an ninh địa phương, tham gia các hoạt động diễn tập phòng chống lụt,
bão, tìm kiếm cứu nạn đạt kết quả tốt. Chính sách hậu phương quân đội, chính
sách đối với người có công được thực hiện tốt, đảm bảo chi trả kịp thời, đúng
đối tượng. Nghị định 09- NĐ/CP của Chính phủ về xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”
được tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đến năm 2005 quỹ đã có 15.000.000
đồng. Hoạt động thăm hỏi, động viên các gia đình đối tượng chính sách xã hội
được thực hiện có nề nếp. Các cấp, các ngành chức năng đã tích cực phối hợp làm
các thủ tục đề nghị giải quyết chế độ cho các cựu thanh niên xung phong, người
bị nhiễm chất độc da cam.
Nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng về việc
đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh tuyến biển, an ninh vùng giáo. Ban Công an
thường xuyên tăng cường công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu; xử lý kiên quyết,
nghiêm minh theo đúng quy định của Pháp luật đối với các hành vi vi phạm như: các tai, tệ nạn xã hội: nghiện hút,
trộm cắp, cờ bạc, các hoạt động vận chuyển buôn bán pháo nổ thường xuyên xảy ra
vào dịp Tết Nguyên đán… Nhằm đảm bảo an toàn giao thông, lực lượng công an xã
đã hướng dẫn các phương tiện vận tải nhỏ, các tổ dịch vụ vận tải và các phương
tiện tham gia các hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản neo đậu ở bến Cống
Tiêu phải đăng ký và chịu sự quản lý của chính quyền cơ sở. Mở chiến dịch tuyên
truyền vận động nhân dân tự tháo rỡ hàng, quán, sắp xếp vật tư và sử dụng điện
an toàn. Với những thành tích, kết quả đã đạt được, hàng năm lực lượng vũ trang
của xã (quân sự và công an) luôn đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến, đơn vị quyết
thắng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Nam Định và Nghị quyết
Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ huyện và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X;
BCH Đảng bộ xã xác định trước hết phải tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ công
tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh toàn diện về chính trị - tư tưởng và tổ
chức. Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, BCH Đảng bộ xác định trước hết
phải tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành và tổ chức triển
khai thực hiện Nghị quyết của BCH Đảng bộ xã; quán triệt sâu sắc và triển khai
tổ chức thực hiện các Nghị quyết chuyên đề thực hiện nhiệm vụ công tác trọng
tâm toàn khóa của BCH Đảng bộ huyện khóa XXI (nhiệm kỳ 2000- 2005) và các Nghị
quyết khác của BCH Đảng bộ huyện. Từ tình hình thực tế của địa phương BCH Đảng
bộ xã đã ban hành Nghị quyết số 06- NQ/ĐU, ngày 01/4/2002 về tăng cường công
tác cây dựng Đảng, Chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân; Nghị quyết số
05- ĐU/NQ, ngày 28/02/2002 về nhiệm vụ công tác quân sự quốc phòng địa phương;
Nghị quyết số 22- NQ/ĐU, ngày 24/12/2002 về công tác dồn điền đổi thửa đất sản
xuất nông nghiệp.
Đảng bộ còn xây dựng và ban hành nhiều Nghị quyết
chuyên đề: Nghị quyết số 71- NQ/ĐU, ngày 28/11/2000 về việc tập trung sự lãnh
đạo để hoàn thành chỉ tiêu Nhà nước và đóng góp địa phương năm 2000; Nghị quyết
số 100- NQ/ĐU, ngày 03/5/2001 về đẩy mạnh thực hiện chiến dịch truyền thông
lồng ghép dân số với dịch vụ KHHGĐ từ năm 2001.
Đảng bộ luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị
tư tưởng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Các đợt học tập,
quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, các Chỉ
thị, Nghị quyết gắn với việc đề ra các Chương trình hành động; các Nghị quyết
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương được tổ chức nghiêm túc,
có hiệu quả. Trong các buổi học tập số lượng đảng viên tham gia luôn đạt tỷ lệ
cao từ 90% trở lên.
Công tác nắm bắt thông tin, dư luận xã hội được
Đảng bộ chú trọng và quan tâm. Thông qua các hội nghị tọa đàm, dịp lễ tết, kỷ
niệm; Đảng bộ, Chính quyền, các ban ngành đoàn thể tổ chức thăm hỏi tặng quà,
nắm bắt tâm tư nguyện vọng; từ đó có điều kiện để kịp thời phát hiện và chủ
động đấu tranh với những quan điểm sai trái lệch lạc và điều chỉnh dư luận ngay
từ cơ sở.
Đảng bộ thường xuyên thực hiện tốt công tác tổ
chức cán bộ, việc đánh giá rà soát, xây dựng, bổ sung quy hoạch cán bộ và thực
hiện nghiêm túc những quy định về cán bộ và công tác cán bộ đảm bảo khách quan,
dân chủ nhằm nâng cao chất lượng cán bộ và hiệu quả công tác. Việc phân công,
bổ nhiệm, sử dụng cán bộ cơ bản thực hiện theo quy hoạch cán bộ. Đảng ủy, chi
bộ luôn quan tâm đến việc rèn luyện đảng viên, phân công công tác cho đảng viên
cũng như uốn nắn những biểu hiện sai lệch về tư tưởng, ý thức phát ngôn, giáo
dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, tinh thần gương mẫu chấp
hành Nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác tạo
nguồn, bồi dưỡng đối tượng Đảng, phát triển đảng viên mới trong giai đoạn 2000-
2005 có bước phát triển mạnh. Đảng bộ đã cử 38 quần chúng ưu tú đi học các lớp
cảm tình Đảng, kết nạp 32 đảng viên mới. Nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên đã
được đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính
trị và kiến thức quản lý nhà nước… Qua phân tích chất lượng đảng viên, tỷ lệ
đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ và đảng viên hoàn thành nhiệm vụ ngày càng
tăng; đảng viên có vi phạm, cần phải xem xét giảm đáng kể. Thực hiện
Chỉ thị 29- CT/TW, ngày 17/10/2003, của Trung ương về việc đổi
thẻ đảng viên; Đảng bộ đã xây dựng kế hoạch tuyên truyền, quán
triệt mục đích, yêu cầu, nguyên tắc và phương trâm của việc đổi
thẻ nhằm nâng cao ý thức cho đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên và tổ chức đảng. Đảng bộ đã tiến hành đổi thẻ đảng viên cho 99
đảng viên trong các đợt 19-5-2004; 2-9-2004, đạt tỷ lệ 100%. Số chi bộ
trong sạch vững mạnh; chi bộ khá hàng năm đều tăng; chi bộ yếu kém giảm. Đảng
bộ đã thực hiện nghiêm túc điều 30 quy định trong Điều lệ Đảng và Chỉ thi số
29- CT/TW của Bộ Chính trị về công tác kiểm tra như thường xuyên kiểm tra đảng
viên thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết…gắn với việc giải quyết đơn thư
khiếu tố của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Công tác kiểm tra, kết luận xử lý cán
bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảm bảo đúng nguyên tắc, không oan sai, được cán
bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình. Qua kiểm tra, năm 2000 có 2 đảng viên; năm
2001 có 3 đảng viên bị xử lý kỷ luật với các hình thức do vi phạm Điều lệ Đảng;
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Bộ máy chính quyền tiếp tục được kiện toàn, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND xã. Các kỳ họp của HĐND
được tổ chức theo đúng luật định; chuẩn bị nội dung chu đáo; duy trì có nề nếp
định kỳ tiếp xúc giữa đại biểu HĐND các cấp với cử tri, đối thoại và nắm bắt
nguyện vọng của nhân dân để bàn và giải quyết tại các kỳ họp; đồng thời phản
ánh lên cấp trên. Các Nghị quyết của HĐND đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng bộ và
đáp ứng được đòi hỏi của đời sống xã hội, có tính khả thi cao. Vị thế của HĐND
được nâng lên, khắc phục dần tính hình thức của cơ quan đại diện cho nhân dân ở
địa phương. Năm 2003, sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố Quyết định tổ
chức cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 vào ngày Chủ nhật
20/4/2004; Huyện ủy Nghĩa Hưng có Chỉ thị số 16 ngày 16/01/2004 và UBND huyện
có Kế hoạch số 10 ngày 16/01/2004 về việc lãnh đạo, triển khai công tác bầu cử
HĐND các cấp; Đảng ủy xã đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/ĐU, ngày 27/01/2004 về
việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cuộc bầu cử HĐND ba cấp nhiệm kỳ 2004-2009
trên địa bàn xã. Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, HĐND xã cuộc bầu cử diễn
ra thành công tốt đẹp. Cử tri đã bầu đủ số lượng, đảm bảo cơ cấu thành phần đại
biểu HĐND các cấp. Cử tri đã bầu 25 đại biểu vào HĐND xã nhiệm kỳ 2004-2009.
Tại kỳ họp thứ nhất HĐND xã ngày 19/5/2004, đồng chí Trần Xuân Đại- Chủ tịch
UBND xã được Hội đồng tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch HĐND; đồng chí Lại Cao
Đỉnh- Bí thư BCH Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2000- 2005 kiêm Chủ tịch HĐND xã (nhiệm kỳ
1999- 2004) được bầu giữ chức Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 2004 – 2009 (khoá IX).
Cùng với việc kiện toàn đội ngũ lãnh đạo; UBND xã
có nhiều cố gắng, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, của HĐND thành chương trình,
kế hoạch công tác. Tập trung chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; tiến hành sơ kết- tổng kết thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; giao chỉ tiêu đóng góp cho từng xóm và xây dựng
phương án phòng chống lụt bão hàng năm. UBND xã cũng xây dựng quy chế làm việc,
lịch tiếp dân và phân công trách nhiệm rõ ràng từ cán bộ xã đến trưởng thôn
xóm. Đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn xóm thường xuyên được củng cố kiện toàn.
Công tác xây dựng chính quyền vững mạnh có tiến bộ; các xóm 1, 4 là những đơn
vị thường xuyên dẫn đầu các phong trào thi đua của xã.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, đã bám sát Nghị quyết của Đảng ủy, các
nhiệm vụ chính trị địa phương và các văn bản chỉ đạo của cấp trên; thường xuyên
tăng cường vận động, tuyên truyền tới các đoàn viên, hội viên, các đoàn thể
quần chúng nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước. Đặc biệt là tuyên truyền Nghị quyết số 15- NQ/HU ngày 22/9/2002
của BCH Đảng bộ huyện về đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Nghị quyết số
16-NQ/HU ngày 5/11/2002 của BCH Đảng bộ Huyện; Nghị quyết số 22- NQ/ĐU của BCH
Đảng bộ xã về dồn điền đổi thửa đất trong sản xuất nông nghiệp. Xây dựng kế hoạch hoạt động và tổ chức nhiều
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động sâu rộng đến các tầng lớp nhân
dân. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư” đã trở thành phong trào quần chúng rộng khắp, động viên các tầng lớp
nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Hàng năm, xã tổ chức tốt Hội nghị đại
biểu nhân dân và Ngày hội đại đoàn kết toàn dân, góp phần từng bước xây dựng
nếp sống văn hoá tại các cộng đồng dân cư ngày một tốt hơn. Mặt trận Tổ quốc
triển khai thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” góp
phần tích cực cùng Đảng, chính quyền chăm lo đời sống vật chất cho người nghèo.
Từ năm 2000, xã đã xóa được hộ đói, số hộ nghèo giảm nhanh. Cũng từ nguồn quỹ
vận động đã hỗ trợ xây nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hỗ trợ vay vốn sản xuất kinh
doanh, trợ cấp trẻ em nghèo đi học.
Với những cố gắng liên tục, không mệt mỏi Đảng bộ
và nhân dân Nam Điền đã cơ bản hoàn thành thắng lợi toàn diện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh trật tự an toàn xã hội cũng như công
tác xây dựng Đảng, Chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân mà Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ xã lần thứ X đề ra. Sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của xã có
nhiều chuyển biến tích cực; bộ mặt nông thôn mới có nhiều đổi thay khang trang,
hiện đại; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt;
quốc phòng- an ninh được giữ vững. Đây là những tiền đề to lớn để Đảng bộ và
nhân dân trong xã tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp
nông thôn, từng bước đưa Nam Điền ngang bằng mặt bằng chung với các xã, thị
trấn trong huyện.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Ban Chấp hành
Đảng bộ xã cũng nhận thức rõ còn một số tồn tại khuyết điểm trong công tác lãnh
đạo phát triển kinh tế, xây dựng cơ bản, kiến thiết nội đồng như mới ổn định 2
vụ lúa; thời gian gieo cấy muộn nên khó điều tiết nước, phòng trừ sâu bệnh;
năng suất lúa chưa cao; ngành nghề chậm phát triển; thu nhập bình quân đầu
người còn thấp mới chỉ đạt 200 USD/năm. Các công trình xây dựng cơ bản, công
trình phục vụ cho thủy lợi, tưới tiêu chưa hoàn chỉnh; cơ sở vật chất, trang thiết
bị của trạm y tế, điểm trường Mầm non khu B nói riêng, trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động giáo dục của các cấp học, ngành học trong xã còn nhiều khó khăn,
thiếu thốn… đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu cố gắng
trong giai đoạn tiếp theo.
2- Đảng bộ và nhân dân Nam Điền phát huy mọi nguồn lực, đổi mới- đoàn kết-
dân chủ, tiếp tục xây dựng quê hương giàu đẹp văn minh (2005- 2010)
Phấn khởi với những thành tích kết quả đã đạt
được, quán triệt tinh thần các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện
ủy; sau thời gian chuẩn bị chu đáo và được sự nhất trí của Ban Thường vụ Huyện
ủy Nghĩa Hưng, trong hai ngày 15 và 16/7/2005, Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần thứ
XI nhiệm kỳ 2005- 2010 đã được tổ chức. Tham gia Đại hội có 90 đảng viên của 11
chi bộ trong toàn Đảng bộ trên cơ sở đánh giá đúng, khách quan những kết quả,
thành tích cũng như những tồn tại, hạn chế trong thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ khoá X nhiệm kỳ 2001-2005; Đại
hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 2005- 2010. Đại hội
đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã gồm 9 đồng chí. Đồng chí Trần Xuân Đại được Ban
Chấp hành Đảng bộ tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy; đồng chí Trịnh Văn
Miết- giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy- Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy; đồng
chí Lại Cao Đỉnh- Phó Bí thư Đảng ủy- phụ trách công tác chính quyền.
Do đặc thù là xã giáp biển nên hoạt động sản xuất
nông nghiệp của xã từ trước đến nay gặp rất nhiều khó khăn; nhất là những năm
gần đây do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, chịu ảnh hưởng nặng nề của
chế độ nhật triều và nước mặn xâm lấn, độ mặn thường xuyên trong đất rất cao.
Từ năm 2007- 2009, tình hình thời tiết tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp: đầu
các vụ đông xuân trời ít mưa dẫn đến nguồn nước ngọt thiếu nghiêm trọng; hạn
hán kéo dài, độ mặn trong đất cao có khi lên tới 3- 5 phần nghìn. Đặc biệt, vụ
đông xuân năm 2007- 2008, trời rét đậm rét hại kéo dài, có ngày xuống dưới 7 độ
C đã làm ảnh hưởng lớn đến thời vụ gieo cấy. Vụ mùa lại chịu ảnh hưởng của mưa
bão nên tình trạng úng lụt thường xảy ra. Vụ mùa năm 2009, bệnh vàng lùn- lùn
xoắn lá lần đầu tiên xuất hiện ở miền Bắc, nhưng lại chưa có thuốc phòng trừ đã
làm cho 53,6 ha của nông dân mất trắng hoặc có được thu hoạch nhưng năng suất
đạt thấp, chỉ vài chục kg/sào. Thêm vào đó, tình trạng sâu bệnh, rầy, nạn chuột
gia tăng; trong khi hệ thống cơ sở vật chất, nguồn vốn của HTX còn nhiều khó
khăn; các công trình thủy lợi chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến năng suất và sản lượng cây trồng. Tuy nhiên do có nhiều
kinh nghiệm trong việc chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp địa phương; Đảng
ủy, UBND, Ban quản lý HTX nông nghiệp đã vận động xã viên đẩy mạnh việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tích cực đổi mới cơ cấu giống và thời
vụ gieo cấy. Hàng năm, vụ đông xuân nhân dân đều gieo cấy đạt 100% diện tích
với các giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao và chất lượng tốt. Trong đó,
các giống lúa lai chiếm từ 70- 80 % diện tích, lúa thuần chiếm từ 20- 30 % diện
tích gieo cấy. Vụ mùa các giống lúa ngắn ngày được nhân dân gieo cấy 80-90%
diện tích, còn lại là các giống tám, nếp đặc sản. Các mô hình khảo nghiệm giống
cây trồng, các loại phân bón, thuốc trừ sâu cũng được HTX giới thiệu để bà con
xã viên áp dụng vào sản xuất. Do đó, năm 2007 tổng sản lượng lúa cả năm đạt
2.223 tấn; vụ chiêm xuân năm 2009 cũng đạt 1.342 tấn. Giá trị thu nhập/ha canh
tác tiếp tục tăng cao: năm 2007 đạt 30 triệu đồng/năm thì năm 2009 là 48 triệu
đồng/năm.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng
ủy, UBND; HTX nông nghiệp tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý theo luật HTX. Các
hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ đã đóng góp phần quan trọng,
khẳng định được vai trò của mình trong việc tổ chức định hướng sản xuất tại địa
phương. HTX đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tính tích cực của kinh tế
hộ xã viên với định hướng phát triển kinh tế tập thể; hướng dẫn vận động nhân
dân trong xã áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới, các giống cây, con tốt, có
năng suất cao phù hợp với đồng đất địa phương để đưa vào sản xuất, đạt hiệu quả
kinh tế cao. Được sự quan tâm của Đảng ủy, UBND và sự chủ động, tích cực của
Ban Quản trị HTX nên hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX như cầu cống,
kênh mương, trụ sở làm việc được củng cố và tăng cường; tình hình tài chính,
vốn quỹ được bổ sung, phát triển. Đội ngũ cán bộ HTX có nhiều cố gắng, khắc
phục khó khăn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý điều hành, từng bước đã khắc
phục được những hạn chế yếu kém. Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/HU của Huyện ủy
về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX và Kế hoạch
số: 64/2006 của UBND huyện Nghĩa Hưng; ngày 23/6/2006, HTX nông nghiệp xã đã
tiến hành tổng kết nhiệm kỳ 2003- 2006, nêu bật những kết quả đã đạt được trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp địa phương; tổ chức thực hiện các hoạt động dịch
vụ thiết yếu của HTX như dịch vụ khuyến nông, tưới tiêu nước và bảo vệ nội
đồng, bảo vệ thực vật, dịch vụ thú y, cung ứng điện và một số khâu dịch vụ thiết
yếu khác. Bên cạnh đó, HTX cũng tiến hành xây dựng phương hướng, nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh nhiệm kỳ 2006- 2009 và đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện
như hoàn thiện và bổ sung xây dựng quy hoạch hệ thống cầu cống kênh mương cấp
1, cấp 2 và cấp 3 phục vụ tưới tiêu nước cho sản xuất lúa và nuôi trồng thủy
hải sản; làm tốt các khâu dịch vụ cơ bản và dịch vụ thỏa thuận phục vụ cho hộ
xã viên phát triển sản xuất đồng thời mở rộng các dịch vụ trong HTX.
Cùng với kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình có
bước phát triển mới. Nhiều hộ dân trong xã có thu nhập khá nhờ phát triển ngành
nghề và các hoạt động thương mại- dịch vụ. Các nghề như mộc, sửa chữa cơ khí,
xây dựng, may mặc… phát triển trải dọc theo trục đường trung tâm của xã, trong
đó tập trung ở khu Ô1. Việc phát triển cây hoa màu, nhất là cây cà chua và các
loại rau vụ đông đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhân dân địa phương. Nhiều
trang trại theo mô hình kinh tế VAC và trang trại thủy sản nuôi tôm, cua, cá… ở
vùng chuyển đổi, vùng bãi ngoài đê và
nuôi ngao vạng ở khu vực bãi triều đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều hộ đã khá và giàu lên. UBND và Ban
quản lý HTX nông nghiệp cùng với Hội nông dân, các đoàn thể chính trị và các
thôn xóm đã tạo mọi điều kiện để cho nhân dân được vay vốn Ngân hàng nông
nghiệp và Ngân hàng chính sách. Từ các nguồn vốn vay này và nguồn vốn tự có,
nhân dân đã mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần giảm tỷ lệ
hộ nghèo của xã từ 18,57% năm 2005 xuống còn 12,17% vào năm 2009.
Diện tích trồng cây màu tiếp tục tăng lên nhanh
chóng, nhất là diện tích cây màu trong khu dân cư, năm 2009 đạt 41,2 ha. Từ năm
2007, cây cà chua được nhân dân Nam Điền đưa vào trồng trái vụ xuân hè đã phát
triển mạnh mẽ ở hầu hết các thôn đội. Thực tế đã khẳng định cây cà chua là cây
trồng phù hợp với đồng đất Nam Điền, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhân dân
trong xã đã mạnh dạn chuyển đổi nhiều diện tích ao nuôi cá kém hiệu quả trong
khu dân cư và một số diện tích đất trồng lúa sang trồng cây màu nói chung và
cây cà chua nói riêng; đã đem lại nguồn thu lớn cho nhân dân địa phương, ước
tính mỗi năm hàng chục tỷ đồng. Các hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm; khai
thác đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản tiếp tục phát triển. Do ổn định được
nguồn lương thực, đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nên
quy mô chăn nuôi trang trại, gia trại được mở rộng. Tổng đàn lợn của xã hàng
năm được duy trì ổn định từ 1.200- 1.300 con; đàn gia cầm từ 10.000- 20.000
con. Hoạt động nuôi trồng thủy sản, bên cạnh những con nuôi truyền thống như
tôm, cua, ngao vạng; nhân dân đã mạnh dạn đưa các loài con nuôi ngọt lợ phù hợp
điều kiện tự nhiên và nguồn nước địa phương vào nuôi trồng đem lại hiệu quả
kinh tế cao từ 70- 75 triệu đồng/ha/năm.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản,
giao thông thủy lợi phát triển nhanh chóng. Năm 2007 tổng giá trị sản xuất tiểu
thủ công nghiệp của xã đạt 2.909 triệu đồng; năm 2009 phát triển vượt bậc đạt
3.980 triệu đồng. Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, Đảng ủy xã đã chỉ đạo đẩy
mạnh công tác xây dựng cơ bản, nhất là hệ thống đường dong thôn xóm, xây dựng,
cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường học, nhà văn hóa xóm; tạo bước
đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. UBND xã xây dựng đề án bê tông hóa
đường giao thông thôn xóm giai đoạn 2006-2015. Đến năm 2010 hệ thống đường
dong, ngõ xóm của 10 xóm cơ bản được bê tông hoá với chiều dài 28,8km, kinh phí
hàng chục tỷ đồng do nhân dân tự nguyện đóng góp, quản lý, xây dựng và xã hỗ
trợ một phần. UBND xã trích từ ngân sách hàng trăm triệu đồng để hỗ trợ kinh
phí xây mới cống vùng nuôi trồng thủy sản; tu bổ bờ bao nước và đường trục nội
đồng; công trình kè bến thuyền Cống tiêu; cũng như hỗ trợ cho các xóm 1 và 4
tiến hành xây dựng nhà văn hóa. Năm 2008, xã cũng đầu tư xây dựng bãi rác thải
tập trung ở khu vực đầm xóm 9 trị giá hàng chục triệu đồng và chỉ đạo các xóm
tiến hành thu gom rác thải đảm bảo giữ gìn vệ sinh chung. Năm 2009, được Huyện
ủy, UBND huyện đầu tư hỗ trợ 100% kinh phí khởi công xây dựng thêm nhà học cao
tầng 12 phòng cho trường Tiểu học, công trình đã được khánh thành, đưa vào sử
dụng từ năm học 2010-2011.
Quán triệt quan điểm của Đảng văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội; giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho phát triển, Đảng uỷ, HĐND, UBND xã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo phát triển các lĩnh vực văn hoá- xã hội.
Công tác giáo dục- đào tạo có bước phát triển mới
theo hướng: chuẩn hoá, xã hội hóa, xây dựng xã hội học tập. Năm học 2006 -2007,
ngành Giáo dục- Đào tạo của xã tiếp tục giữ vững và phát huy những thành tích
đã đạt được, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đây là năm học
đầu tiên bậc Tiểu học triển khai xét kết quả tốt nghiệp, 100% học sinh lớp 5
của xã đủ tiêu chuẩn vào lớp 6; bậc Trung học cơ sở cũng có 100% học sinh được
xét tốt nghiệp; số học sinh khá, giỏi ngày càng tăng, số em thi học sinh giỏi
cấp huyện, tỉnh đạt giải cao ngày càng nhiều; số học sinh trúng tuyển vào lớp
10 tăng đáng kể, có 67 học sinh dự thi trúng tuyển. Các lớp học bổ túc và trung
tâm học tập cộng đồng phát triển mạnh, xã mở được 7 lớp với tổng số 530 lượt
học viên tham gia. Ngành học Mầm non huy động được cơ bản các cháu trong độ
tuổi đến lớp, tổ chức ăn trưa cho các cháu đạt chất lượng tốt. Các cuộc vận
động lớn của ngành giáo dục: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”;
“Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” và phong
trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được các
trường học và các thầy cô giáo nhiệt tình hưởng ứng. Sỹ số học sinh các ngành
học, cấp học được duy trì ổn định, tình trạng học sinh bỏ học, nghỉ học giảm
đáng kể so với trước đây. Kết quả giáo dục toàn diện, cũng như thi tốt nghiệp,
thi vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của con em trong
xã ngày càng cao. Tổng kết năm học, các trường luôn được xếp loại là trường
hoàn thành nhiệm vụ. Phong trào khuyến học, khuyến tài thường xuyên được quan
tâm, đẩy mạnh, 100% các xóm có chi hội khuyến học. Nhiều gia đình tất cả các
con đều có trình độ đại học, cao đẳng; một số có trình độ trên đại học, nhiều
gia đình được công nhận là gia đình hiếu học.
Công tác y tế- dân số kế hoạch hoá gia đình của xã
cũng tiếp tục đạt được những thành tích mới: Công tác vệ sinh phòng dịch thường
xuyên thực hiện tốt. Ban chỉ đạo phòng dịch kịp thời được kiện toàn, hoạt động
tích cực, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Chất lượng khám, chữa bệnh
cho nhân dân từng bước được nâng cao. Xã thực hiện tốt các chương trình Quốc
gia về y tế cũng như quản lý các bệnh xã hội. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng giảm. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình có nhiều cố gắng, đạt được
các mục tiêu đề ra. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm đều giảm; năm
2006 là 1,52%, năm 2009 giảm xuống còn 1,26%.
Công tác văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao trên
địa bàn được đẩy mạnh: phục vụ thông tin, tuyên truyền cho những ngày kỷ niệm
lớn cũng như nhiệm vụ chính trị địa phương. Phong trào rèn luyện sức khoẻ, các
môn thể dục, thể thao như đi bộ, cầu lông, bóng chuyền… đã và đang trở thành
phong trào rộng rãi trong nhân dân và mọi lứa tuổi. Hàng năm, vào những dịp hè
và rằm trung thu Đoàn thanh niên xã đều phối hợp với các đoàn thanh niên tình
nguyện và các thôn đội tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao bổ ích cho các em. UBND xã đã lãnh đạo các ngành, thôn đội tổ chức
Đại hội TDTT lần thứ VI của xã và cử các vận động viên tiêu biểu tham gia các
môn thể thao tại Đại hội TDTT của Huyện đạt kết quả tốt. Công tác xét duyệt gia
đình đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hoá hàng năm được UBND và các thôn đội triển
khai thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, những gia đình được công nhận xứng
đáng và là tấm gương cho những hộ khác noi theo. Năm 2009, đã bình xét được 668
hộ gia đình trong xã đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá.
Thực hiện chính sách – xã hội, xã đã tổ chức chi
trả chế độ kịp thời cho các đối tượng đảm bảo an toàn, đúng- đủ theo quy định.
Trong những ngày lễ, tết Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội đều tổ chức các hoạt động thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình
chính sách, có công với cách mạng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em nghèo
vượt khó học giỏi. Năm 2006, xã đã hướng dẫn cho 94 trường hợp khám chất độc da
cam, đề nghị Nhà nước xét hưởng chế độ; hướng dẫn cho 15 trường hợp làm hồ sơ
theo Quyết định 98/2006/QĐ-TTg ngày 05/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về “xét
tặng bằng khen cho các đối tượng hoạt động kháng chiến qua 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp, Mỹ”. Các hoạt động bảo đảm an sinh xã hội như cấp thẻ bảo hiểm y tế
cho người nghèo, trợ giúp xe lăn, xây dựng nhà tình nghĩa và một số hoạt động
khác được quan tâm thực hiện thường xuyên.
Công tác an ninh trật tự và quân sự địa phương
được tăng cường và củng cố mọi mặt. Xã đã phối hợp với Đồn biên phòng 100 thực
hiện có hiệu quả các mô hình phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tuyến biển,
hàng năm đều được các cấp có thẩm quyền khen thưởng. Nhiều năm liền xã đều hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ tuyển chọn công dân nhập ngũ và dự nguồn cho các năm
sau. Nam Điền là xã luôn dẫn đầu toàn huyện về hoàn thành nhiệm vụ giao quân
hàng năm. Lực lượng công an thường trực, công an xóm được chăm lo xây dựng, tập
trung giải quyết kịp thời các vụ việc, không để tồn đọng kéo dài, không để xảy
ra trọng án; giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền các đơn thư khiếu tố của công
dân, không có khiếu nại, tố cáo đông người và vượt cấp. An ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội ở địa phương được giữ vững. Từ năm 2007, thực hiện Nghị quyết
số 32/2007/NQ-CP, ngày 29/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về kiềm chế tai nạn
giao thông và ùn tắc giao thông; xã đã chỉ đạo các ban ngành tuyên truyền rộng
rãi đến các tầng lớp nhân dân; giao Ban Công an tổ chức ký cam kết với các nhà
trường; các chủ xe ôtô khách, xe ôtô vận tải, các loại xe lôi, xe kéo… chấp
hành nghiêm luật giao thông đường bộ. Đặc biệt, xã đã vận động quần chúng thực
hiện tốt Nghị định số 47 và Chỉ thị số 406 của Thủ tướng Chính phủ về cấm vận
chuyển, buôn bán pháo nổ, trong những dịp tết Nguyên đán đã không để xảy ra
tình trạng lưu hành, vận chuyển, sử dụng hàng cấm, hàng giả và đốt pháo nổ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã,
Đảng ủy tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng các cấp tới cán bộ, đảng viên và phổ biến tới nhân dân, tạo sự thống
nhất trong tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ đảng viên, tăng cường đoàn kết
nội bộ, ban hành nhiều Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo các ngành, cán bộ,
đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh
tế- xã hội, đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 11/7/2006 của
Bộ Chính trị về triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; Kế hoạch số 10-KH/HU, ngày 07/02/2007 của Ban Thường vụ Huyện ủy
về triển khai Cuộc vận động; Đảng ủy xã đã thành lập Ban Chỉ đạo Cuộc vận động
do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban và xây dựng kế hoạch chỉ đạo học tập
các chuyên đề từng năm. Cụ thể: Năm 2007, học tập 2 chuyên đề “Đẩy mạnh học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” và nghiên
cứu các tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và
“Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 2008, học tập chuyên đề “Tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu” và tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Năm 2009, tiếp tục học tập chuyên đề
“Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” gắn với kỷ niệm 40 năm thực
hiện Di chúc của Bác và học tập Chỉ thị 34-CT/TW ngày 17/4/2009 của Ban Bí thư
về “Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình trên
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa” và năm 2010 học tập chuyên đề “Tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh “là đạo
đức, là văn minh” gắn với Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị
về công tác tổ chức và tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thức XI của Đảng.
Qua 4 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động đã
tạo được sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Quán triệt sâu sắc những nội dung
cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Bác Hồ, nhận thức đúng
đắn và đầy đủ mục đích, ý nghĩa tầm quan trọng của Cuộc vận động. Từ đó, phấn
khởi tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cán bộ, đảng viên đã có chuyển biến tích
cực trong nhận thức và hành động đã
tích cực, sâu sát cơ sở, gần gũi với nhân dân; đối với công việc đã chủ động
thể hiện trách nhiệm và nâng cao chất lượng hiệu quả; thể hiện tính tiền phong
gương mẫu vận động nhân dân và người thân trong gia đình tích cực hưởng ứng;
nhiều tấm gương người tốt, việc tốt cũng đã xuất hiện trong Cuộc vận động.
Cùng với việc tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động,
Đảng bộ tập trung triển khai có hiệu quả các hội nghị học tập, quán triệt và
triển khai thực hiện Nghị quyết của cấp uỷ các cấp, nhất là Nghị quyết Trung
ương 3 (khoá X) về tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng, Nghị quyết
Trung ương 4, Trung ương 5, Trung ương 6, Trung ương 7. Các đợt học Nghị quyết
có từ 90- 95% cán bộ, đảng viên tham gia. Trong học tập Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 5/8/2008 của BCH Trung ương (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
đây là lần đầu tiên BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết lãnh đạo toàn diện
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết đã đáp ứng được nguyện vọng
thiết tha của nông dân, tạo ra sức mạnh, động lực to lớn để phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong cả nước, trong đó có Nam Điền.
Đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, các ban, ngành,
đoàn thể cơ bản ổn định. Tuy là xã còn nhiều khó khăn cả về kinh tế, xã hội và
đội ngũ cán bộ, nhưng xã rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ cán bộ lãnh đạo quản lý. Từ năm 2006- 2010 đã cử 18 đồng chí đi học
trung cấp lý luận và đại học chuyên môn. Trình độ, năng lực cán bộ được nâng
lên, trên 90% cán bộ chuyên trách, công chức có trình độ lý luận trung cấp,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên; đến năm 2010 đã có 6 đồng
chí có trình độ Đại học, 3 đồng chí đang tiếp tục học đại học. Thực hiện Nghị
quyết số 11- NQ/TW, ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý và chủ trương của Ban Thường vụ Huyện ủy về luân chuyển cán
bộ; đồng thời để tăng cường sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ xã Nam Điền, tháng 7/2009,
Ban Thường vụ Huyện ủy đã quyết định điều động, luân chuyển đồng chí Bùi Văn
Khương - Ủy viên BCH Đảng bộ huyện, Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
huyện về tham gia BCH Đảng bộ và trực tiếp làm Bí thư BCH Đảng bộ xã. Cũng
trong năm 2009, BCH Đảng bộ đã có quyết định tách chi bộ 8- 9 thành 2 chi bộ,
chi bộ 8 và chi bộ 9, phân công 2 đồng chí Ủy viên BCH Đảng bộ xã về trực tiếp
tham gia sinh hoạt ở chi bộ 8 và chi bộ 9. Đảng bộ đã có 14 chi bộ, trong đó có
10 chi bộ thôn xóm, 3 chi bộ nhà trường, 1 chi bộ trạm y tế; Đảng bộ không còn
chi bộ ghép.
Nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng được thực hiện nghiêm túc.
Đảng ủy đặc biệt quan tâm đến đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt của cấp
ủy và các chi bộ; coi đó là thước đo đánh giá chất lượng từng cán bộ, đảng viên
và các chi bộ. Công tác bồi dưỡng quần chúng ưu tú vào Đảng được quan tâm, từ
năm 2006/ 2009 Đảng bộ đã bồi dưỡng kết
nạp được 18 quần chúng ưu tú vào Đảng. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện
đảng viên luôn được Đảng ủy, chi bộ coi trọng. Kết quả phân tích chất lượng
đảng viên, năm 2007 có 50% đồng chí đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ; 49,06%
hoàn thành nhiệm vụ; đảng viên vi phạm tư cách 0,94% thì đến năm 2009 đảng viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ: 83,03 % trong đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt
8,03%; đảng viên hoàn thành nhiệm vụ 16,97%, không còn đảng viên vi phạm tư
cách. Về kết quả xếp loại chi bộ; năm 2007 có 58,7% chi bộ đạt trong sạch vững
mạnh; 33,6% chi bộ hoàn thành nhiệm vụ; 1 chi bộ yếu kém; năm 2009 có 78,58%
chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; 14,28% chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 7,14%
chi bộ hoàn thành nhiệm vụ; không còn chi bộ yếu kém. Năm 2009, Đảng bộ đã đạt
danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đây là thành tích ghi nhận những cố
gắng, nỗ lực rất lớn của Đảng ủy cũng như toàn thể đảng viên của Đảng bộ trong
suốt những năm vừa qua.
Công tác xây dựng Chính quyền được Đảng bộ chăm lo
củng cố, ngày càng phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động cả về tổ chức bộ máy,
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và tổ chức, điều hành thực hiện các Nghị quyết
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đảng bộ đã tổ chức thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả Nghị định số 121/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ và Quyết
định số 1972/QĐ-UBND của UBND tỉnh về công tác cán bộ xã, phường, thị trấn. Đội
ngũ cán bộ chuyên trách, cán bộ công chức xã, cán bộ cơ sở xóm được bổ sung,
kiện toàn đi vào hoạt động đảm bảo yêu cầu công tác tại cơ sở. HĐND xã bám sát
chủ trương Nghị quyết của Đảng, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng ủy thành chương
trình hành động. Chất lượng các kỳ họp được nâng lên sát với thực tế của địa
phương. Các cuộc tiếp xúc cử tri thật sự có chất lượng, ý thức trách nhiệm
người đại biểu nhân dân ngày một nâng cao. UBND xã đã xây dựng quy chế làm
việc, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 38- CP/TTg và Chỉ thị số
09/2005/CT-TTg ngày 05/04/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh
công tác cải cách hành chính, xóa bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp,
thực hiện cơ chế “một cửa” tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc liên
hệ, giải quyết công việc; bám sát các Nghị quyết của Đảng uỷ, của HĐND xã thành
chương trình kế hoạch công tác của mình; chỉ đạo thực hiện tốt Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở; tổ chức thực hiện nghiêm túc lịch tiếp dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại tố cáo của nhân dân. Công tác quản lý đất đai chặt chẽ hơn, thường
xuyên kiểm tra rà soát, lập kế hoạch đăng ký; trong 5 năm đã cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho 638 hộ gia đình. Năm 2005 và năm 2009, chính quyền
xã đạt vững mạnh.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thật sự xứng đáng là cầu nối giữa cấp
Uỷ đảng, chính quyền với nhân dân. Làm tốt công tác vận động quần chúng, đoàn
viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách
pháp luật của Đảng, Nhà nước, nội quy, quy định của địa phương, đoàn hội; chủ
động, tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nhất là trên
lĩnh vực trồng trọt và nuôi trồng thuỷ hải sản.
Mặt trận tổ quốc phát huy tốt vai trò, chức năng;
tích cực tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân; tiếp thu, lắng nghe ý
kiến, kiến nghị của nhân dân để kịp thời phản ánh với Đảng, Chính quyền xem xét
giải quyết những nguyện vọng chính đáng; thực hiện tốt chức năng tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng Chính quyền.
Hội Cựu chiến binh duy trì tốt nề nếp sinh hoạt
của Ban Chấp hành và các chi hội; củng cố kiện toàn bộ máy; tích cực tuyên
truyền vận động, phát triển kết nạp hội viên. Các phong trào hoạt động mang lại
hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội, hội viên luôn phát huy bản chất Bộ
đội cụ Hồ. Trong nhiệm kỳ, Hội đã kết nạp được 80 hội viên, đưa tổng số hội
viên của Hội lên là 286 hội viên.
Hội liên hiệp Phụ nữ đã phối kết hợp tốt các
chương trình Dân số- KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ, bảo đảm
quyền bình đẳng giới. Hoạt động của các mô hình Câu lạc bộ từng bước đi vào nề
nếp, tạo khí thế và sự lôi cuốn hội viên. Trong 5 năm đã phát triển được 525
hội viên, đưa tổng số hội viên lên là 1.425 người, đạt 78% tỷ lệ phụ nữ vào
hội. Các hoạt động tín dụng giúp Phụ nữ vay vốn; quản lý, sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn vay để phát triển kinh tế và các chương trình khác được đẩy mạnh.
Đoàn Thanh niên đã có nhiều cố gắng tập hợp thu
hút thanh niên vào đoàn; giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng để bồi dưỡng, tạo
nguồn phát triển đảng viên mới; hướng dẫn và tổ chức các hoạt động vui chơi hè,
ngày rằm Trung thu cho thiếu niên, nhi đồng. Hàng năm Đoàn được công nhận là
đơn vị tiên tiến, tỷ lệ phát triển đoàn viên hàng năm đều đạt 35%.
Hội Nông dân tích cực đẩy mạnh hoạt động liên kết,
cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện giúp cho nông nhân có điều
kiện phát triển kinh tế. Hội từng bước xây dựng và nhân rộng các mô hình làm
kinh tế giỏi, phối hợp với các ngành chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông
dân. Tổ chức hội tiếp tục củng cố, xây dựng, phát triển hội viên mới, trong 5
năm đã kết nạp được 295 hội viên, đưa tổng số hội viên của hội là 1.023 người,
tỷ lệ hội viên đạt 85% hộ nông nghiệp.
Thực hiện Chỉ thị số 37- CT/TW, ngày 04/8/2009 của
Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của
Đảng; trong 2 ngày 14, 15/5/2010, Đại hội Đảng bộ xã Nam Điền lần thứ XII được
long trọng tổ chức. Tham dự Đại hội có 124 đảng viên của 14 chi bộ trong toàn
Đảng bộ. Đại hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo Văn kiện trình
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, như: Dự thảo Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011); Báo cáo chính trị; Báo cáo chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011- 2020; Sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng;
tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ Huyện
khóa XXII trình tại Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XXIII.
Đại hội đánh giá kết quả mà Đảng bộ, Chính quyền,
các tầng lớp nhân dân trong xã nỗ lực phấn đấu đạt được trong nhiệm kỳ 2005-
2010: “phát huy kết quả, thành tích đạt được; tiềm năng, thế mạnh của địa
phương; tranh thủ thời cơ, thuận lợi; khắc phục khó khăn, trở ngại; Đảng bộ và
nhân dân trong xã đã nỗ lực phấn đấu vươn lên hoàn thành cơ bản các mục tiêu,
nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XI đề ra. Công tác xây dựng Đảng, Chính
quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Trong nhiệm
kỳ Đảng bộ 2 năm được công nhận trong sạch vững mạnh, có 80% chi bộ đạt trong
sạch vững mạnh. Chính quyền 2 năm được công nhận vững mạnh, các đoàn thể tiên
tiến và tiên tiến xuất sắc. Kinh tế tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Tốc
độ tăng trưởng bình quân đạt 7,3%/năm; cơ cấu kinh tế, cây trồng, con nuôi, mùa
vụ đã có chuyển biến theo hướng tích cực; năng lực
sản xuất từng bước được nâng lên; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được quan tâm
đầu tư nâng cấp và xây dựng mới; bộ mặt nông thôn mới có nhiều khởi sắc; các
lĩnh vực văn hóa – xã hội tiếp tục phát triển; quốc phòng an ninh được giữ
vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, củng cố thêm được lòng tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý và điều hành của chính quyền”. Đại hội cũng đánh giá nghiêm túc
những hạn chế, khuyết điểm; chỉ rõ nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành trong nhiệm kỳ vừa qua.
Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
của nhiệm kỳ 2010-2015. Mục tiêu tổng quát: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Nâng cao năng lực, hiệu quả
quản lý và điều hành của chính quyền; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Phát triển kinh tế, lấy nông nghiệp làm
nhiệm vụ trọng tâm, nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản làm mũi nhọn, tăng dần
tỷ trọng sản suất tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và thương mại - dịch
vụ. Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Phát triển kinh tế gắn
với bảo vệ môi trường, cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện có
hiệu quả các chính sách xã hội. Nâng cao chất lượng công tác Văn hoá - thể thao
- thông tin tuyên truyền, chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng công tác y
tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.”
Các chỉ tiêu cụ thể:
1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 8%/năm.
2- Tổng giá trị sản xuất ngành nông- lâm- ngư
nghiệp là 26.846 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 6,5%/năm.
3- Tổng giá trị sản xuất ngành tiểu thủ công
nghiệp- xây dựng cơ bản là 4.792 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 10,8%/năm.
4- Tổng giá trị sản xuất ngành dịch vụ - thương
mại đạt 3.634 triệu đông, tốc độ tăng trưởng đạt 13,6%/năm.
5- Phấn đấu cơ cấu kinh tế đến năm 2015, nông-
lâm- ngư nghiệp: 71%; công nghiệp- xây dựng: 10%; thương mại: 19%.
6- Thu, chi ngân sách phấn đấu tăng 7-10 %/ năm so
với dự toán huyện giao; phấn đấu giành trên 10 % tổng chi hàng năm cho xây dựng
cơ bản.
7- Phấn đấu
trên 55% số hộ gia đình, 20 – 30% số xóm đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa, duy
trì và nâng cao chất lượng nếp sống văn hóa ở các trường học, trạm y tế. Nâng
cao chất lượng giáo dục- đào tạo, trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức II,
trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia, trên 70% số học sinh tốt nghiệp THCS được
học THPT. Giữ vững xã chuẩn quốc gia về y tế, nâng cao chất lượng công tác dân
số, phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%; có từ 2- 3 xóm
không có người sinh con thứ 3 trở lên; trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới
15%.
8- Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
9- Có 80 – 85% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh,
không còn chi bộ yếu kém. Đảng bộ xã trong sạch vững mạnh, trên 80% đảng viên
đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chính quyền vững mạnh, MTTQ và các đoàn thể
chính trị xã hội tiên tiến và tiên tiến xuất sắc.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ
2010- 2015 gồm 13 đồng chí và
bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXIII. Đồng chí Lại Cao Đỉnh
được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ xã; đồng chí Phạm Văn Dương- Phó Bí thư
Thường trực- Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ; đồng chí Hoàng Thành Triệu- Phó Bí thư-
phụ trách công tác chính quyền. Tại kỳ họp thứ nhất HĐND xã Nam Điền (nhiệm kỳ
2011- 2016), đồng chí Lại Cao Đỉnh- Bí thư BCH Đảng bộ xã được HĐND xã bầu giữ
chức vụ Chủ tịch HĐND; đồng chí Hoàng Thành Triệu – Phó Bí thư Đảng ủy được bầu
giữ chức vụ Chủ tịch UBND xã.
Đại hội Đảng bộ xã thành công tốt đẹp đã tạo ra
tiền đề, cơ sở vững chắc cho quá trình lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Ban Chấp
hành Đảng bộ những năm tiếp theo. Ngay sau Đại hội nhiệm kỳ mới, công tác kiện
toàn tổ chức và xây dựng quy chế hoạt động của cấp uỷ được triển khai thực hiện
ổn định thành nề nếp; trước những khó khăn và thuận lợi mang tính đặc thù của
Nam Điền; BCH Đảng bộ đã bắt tay ngay vào việc tập trung lãnh đạo phát triển
kinh tế: Xác định hướng đi từ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng
con nuôi, được coi như là sự tất yếu đối với Nam Điền và cần phải có sự lãnh
đạo chỉ đạo sâu sát, kịp thời để sớm tạo được động lực mới cho kinh tế nông
nghiệp nông thôn phát triển theo hướng tích cực. Thực hiện chủ trương này, Đảng
uỷ đã ban hành Nghị quyết số 01 ngày 22/7/2010 về việc “Lãnh đạo triển khai
thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất nông nghiệp vùng trồng lúa kém
hiệu quả thời kỳ 2010- 2015”, Nghị quyết số 08 ngày 09/12/2010 về việc “Lãnh
đạo, vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất, gắn với việc thực hiện quy
hoạch về giao thông, thuỷ lợi nội đồng”. Ngay sau đó các Nghị quyết này được
tích cực triển khai thực hiện từng bước có hiệu quả gắn với quy hoạch sản xuất
nông nghiệp đến năm 2020, tiến hành quy hoạch các vùng sản xuất và xây dựng cơ
sở hạ tầng đồng ruộng… đó chính là những khởi đầu nhưng rất quan trọng, phù hợp
với những nội dung của chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
trong những năm tiếp theo.
Chặng đường 10 năm (2000 - 2010) là thời kỳ lịch
sử hết sức sôi động trong nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ CNH-
HĐH nông nghiệp nông thôn ở Nam Điền. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức
cũng như hạn chế, yếu kém nhưng Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã đạt được những
thành tích hết sức to lớn và có ý nghĩa. Kết quả, thành tích đó đã và đang là
động lực to lớn và quan trọng để Đảng bộ và nhân dân trong xã tiếp tục khai
thác tiềm năng, phát huy nội lực phấn đấu xây dựng quê hương giàu đẹp, dân chủ,
công bằng, văn minh, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng
bộ xã đã đề ra.
KẾT LUẬN
Nam Điền vùng đất mới, là mảnh đất tụ cư của những
người dân từ nhiều địa phương về sinh cơ lập nghiệp từ những năm 1976-1977 của
thế kỳ XX và chính thức được thành lập mang tên xã Nam Điền ngày 27/3/1978.
Nghe theo lời kêu gọi của Đảng và ý thức trách
nhiệm công dân, hàng ngàn người dân từ khắp nơi trong tỉnh, trong huyện đã tập
hợp về đây chung lưng đấu cật, vật lộn cùng phong ba bão táp, vượt lên sóng dữ,
đạp bằng mọi trở ngại chông gai, quyết tâm lập nghiệp trên quê hương mới. 35 năm-
một chặng đường, một quãng thời gian không dài trong dòng chảy lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam nói chung và lịch sử hàng trăm năm của huyện
Nghĩa Hưng nói riêng, nhưng quãng thời gian đó cũng đã đủ để tạo nên truyền
thống riêng của Đảng bộ và nhân dân Nam Điền.
35 năm qua, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã trải
qua những ngày tháng gian khổ chống chọi với thiên nhiên, cẫn mẫn vượt mọi khó
khăn để xây dựng và bảo vệ quê hương. Ngày nay, bộ mặt nông thôn và cuộc sống
muôn màu của người dân đang dần dần hiện lên những gam màu tươi sáng. Các công
trình: điện thắp sáng, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá...
và những ngôi nhà cao tầng kiên cố,
khang trang đang từng ngày được xây dựng đã làm thay đổi một cách căn bản hình
ảnh của vùng kinh tế nghèo khó. Trải qua khó khăn gian khổ, Đảng bộ Nam Điền đã
trưởng thành hơn, lớn mạnh hơn, đủ sức đảm đương nhiệm vụ mà nhân dân giao phó.
Đây là những thành quả được đơm hoa, kết trái từ ý chí và nghị lực phi thường
của các thế hệ đi trước.
"Uống nước nhớ nguồn", “Ăn quả nhớ người
trồng cây” lịch sử của chặng đường 35 năm qua trở thành bài học quý giá cho ngày
hôm nay. Những đổi thay hôm nay lại được bắt nguồn từ công sức trí tuệ và lòng
quyết tâm của bao thế hệ hôm qua. Việc ôn lại lịch sử và giáo dục truyền thống
cho các thế hệ tương lai luôn là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết để
các thế hệ hôm nay và mai sau tự tin vững bước đi lên.
Qua việc tổng kết lịch sử, ghi lại từng chặng
đường đã đi, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã rút ra được những bài học bổ ích.
Bài
học thứ nhất: Xây dựng Đảng bộ trong sạch- vững mạnh là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của của phong trào cách mạng địa
phương.
Tổng kết 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn trong đó có
bài học: “Sự lãnh đạo đúng đắn của đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta”.
Lịch sử 35 năm qua của Đảng bộ xã Nam Điền cũng
trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn. Ngày
mới thành lập, trong lúc còn ngổn ngang công việc, đê mới đắp, nhà ở chưa làm
xong, cuộc sống tạm bợ, khó khăn thiếu thốn, nhiều gia đình trong đó có cả cán
bộ đảng viên không chịu được gian khổ đã bỏ về quê cũ hoặc chuyển đi nơi khác.
Từ chi bộ HTX Nghĩa Điền (thành lập năm 1977), đến Đảng bộ xã Nam Điền (thành
lập đầu năm 1979), trải qua quá trình 35 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ
không tránh khỏi những vấp váp, thậm chí có thời điểm một số đồng chí cán bộ
chủ chốt mắc sai lầm, khuyết điểm bị kỷ luật, niềm tin của nhân dân đối với
Đảng bộ bị giảm sút. Cái đói, cái rét, khó khăn, gian khổ của nhân dân không
sao kể xiết... Đó là những thử thách nghiệt ngã, kéo dài nhiều năm và là gánh
nặng thường xuyên đặt lên vai Đảng bộ, đặc biệt là bộ máy lãnh đạo. Nhưng với
bản lĩnh, ý chí nghị lực phi thường, BCH Đảng bộ của 12 kỳ Đại hội đã bình tĩnh,
tự tin chèo lái phong trào, đưa con thuyền cách mạng lần lượt vượt qua mọi thác
ghềnh, cập bến an toàn và ngày càng vững bước đi lên.
Đảng bộ phải luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng
trong sạch- vững mạnh toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, luôn đấu
tranh tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất ý trí và hành
động trong toàn Đảng bộ, giữ vững các nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Đảng
bộ (mà cốt lõi là BCH) và bộ máy lãnh đạo trong xã đã luôn luôn đặt vấn đề đoàn
kết nội bộ lên trên hết. Khó khăn không nản, không tranh công đổ lỗi, bình tĩnh
đấu tranh để tìm rõ nguyên nhân và tìm cách tháo gỡ sai lầm. Mặt khác cũng kiên
quyết đấu tranh để chống lại các hiện tượng thoái hoá biến chất, dao động ngả
nghiêng, chia rẽ bè phái, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm kỷ luật. Trên tình
đồng chí, cán bộ, đảng viên luôn nhắc nhở nhau phải gạt bỏ mọi thành kiến cá nhân,
phá vỡ bức tường ngăn cách của tư tưởng “cục bộ địa phương” dòng họ, làng xóm,
coi sự nghiệp cách mạng của xã, của Đảng bộ là trách nhiệm của tất cả mọi người.
Phải cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đói no cùng chịu, thành quả cùng hưởng. Tất cả
điều đó đã tạo ra được sức mạnh để Nam Điền vượt qua thử thách, thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị trong mọi thời kỳ.
Thực tiễn của Nam Điền đã chứng minh, thời kỳ nào
bộ máy tổ chức được kiện toàn, đội ngũ cán bộ ổn định, thực sự đoàn kết, thống
nhất thì thời kỳ đó tình hình chung sẽ ổn định, phong trào có bước phát triển
đi lên và ngược lại. Chính vì vậy thực hiện tốt nhiệm vụ công tác cán bộ là
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng ở Nam Điền. Đảng viên
của Đảng bộ, trước hết là trong đội ngũ cán bộ chủ chốt luôn phải kiên định,
nhiệt tình, tất cả vì nhiệm vụ chung, nêu cao tính tiền phong gương mẫu. Nắm
chắc các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vận
dụng sáng tạo, căn cứ tình hình thực tế của địa phương đề ra nghị quyết lãnh
đạo sát, đúng, có biện pháp lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết. Để có đội
ngũ cán bộ đủ tâm, đủ tầm trước hết phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, gắn
quy hoạch với đào tạo và sử dụng cán bộ.
Bài học thứ hai: Phát huy tối đa sức mạnh
của khối đoàn kết toàn dân; thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở là cội
nguồn của mọi thành tựu trên quê hương Nam Điền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết- thành công, thành công, đại thành công”. Thấm nhuần và thực hiện
nghiêm túc lời dạy của Bác, hơn 80 năm qua, đặc biệt là 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử.
Với Nam Điền bài học về tinh thần đại đoàn kết
toàn dân lại càng có ý nghĩa quan trọng. Quá trình hình thành xã gắn liền với
việc quai đê lấn biển chinh phục thiên nhiên, đi liền với di dân mở mang làng xóm.
Về mặt xã hội, dân cư của xã được hình thành trên cơ sở hội tụ các thành phần cư
dân của nhiều vùng, miền. Khi về đây định cư lập nghiệp, mỗi người, mỗi dòng họ
đều mang theo những phong tục tập quán, những thói quen và nếp sống của riêng
địa phương mình. Là sự giao thoa của nhiều phong tục, tập quán, thói quen, tạo
nên sự phong phú, sinh động trong đời sống văn hoá, tinh thần của người dân,
nhưng đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới thiếu thống nhất,
thiếu đồng thuận trong cách nghĩ, cách ứng xử, cách làm của người dân Nam Điền
và đó cũng là nguyên nhân của việc nảy sinh tư tưởng cục bộ địa phương làng,
xã, dòng họ… Xã Nam Điền những ngày đầu được thành lập chỉ là một vùng đất
hoang, nơi sinh sôi nảy nở của các loài lau sậy, năn lác, nhân dân trong vùng
đã phải bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức để chặt phá cỏ hoang, cây dại, đào
đắp kênh mương, san ghềnh lấp trũng, vượt lập ruộng, vườn để sản xuất, phát
triển kinh tế, dựng nhà dựng cửa ổn định cuộc sống, điều đó chỉ có thể thực
hiện bằng sức mạnh của ý chí con người mà trên hết là truyền thống đoàn kết của
dân tộc Việt Nam.
Bước sang thời kỳ đổi mới, tinh thần đoàn kết ấy
được biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau trong đó có điểm nổi bật là thực
hiện tốt pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Đây là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Nam Điền luôn là một khối đoàn kết vững
chắc, thống nhất. Chính vì vậy, mọi công việc như phương hướng, kế hoạch phát
triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân;
Đảng uỷ, HĐND, UBND xã Nam Điền đã tổ chức các hội nghị công khai ở các xóm,
đưa ra các ý kiến đề xuất để nhân dân tham gia bàn bạc; sau khi đã được sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân, xã mới chính thức tổ chức thực hiện. Những công trình
thực hiện bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân, xã định hướng, chi bộ xây dựng
phương án lãnh đạo, nhân dân bàn bạc, quyết định và tự tổ chức thi công, giám
sát, nghiệm thu. Cách làm công khai, minh bạch đó đã nhận được sự hưởng ứng
nhiệt tình của nhân dân, nên mặc dù là xã khó khăn về kinh tế, đời sống nhân
dân còn nhiều vất vả, nhưng ai cũng đồng lòng, tự nguyện góp công, góp của để
xây dựng và kiến thiết quê hương ngày càng khang trang đẹp đẽ.
Bài học thứ ba: Phát huy tinh thần chủ động sáng
tạo, khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có
để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Là một xã ven biển, đất đai nhiều nơi bị nhiễm
phèn, nhiễm mặn và thường xuyên bị ngập úng khi mưa bão xảy ra nhưng Nam Điền
cũng là mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng nhiều điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế mà không phải bất cứ địa phương nào cũng có được. Sản
xuất nông nghiệp của Nam Điền gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những vụ gieo
trồng không được thu hoạch, nông dân lâm vào tình trạng thiếu đói. Nếu chỉ trông
chờ vào sự phân phối, điều tiết của Nhà nước trong thời kỳ đầu và nguồn thu từ
sản xuất nông nghiệp trong những năm tiếp theo thì cuộc sống của người dân và
lợi ích của tập thể khó có thể bảo đảm chứ chưa nói gì đến phát triển. Biết được
điều kiện khó khăn của mình, Đảng bộ và nhân dân Nam Điền đã không thụ động trông
chờ, ỷ lại vào cấp trên mà đã chủ động bàn bạc để tự tìm ra lối thoát. Cán bộ,
đảng viên và nhân dân tự động viên nhau vừa giữ vững sản xuất, chú trọng sửa
sang, cải tạo đồng ruộng,… vừa nhường cơm sẻ áo giúp nhau chống đói, giúp nhau
về giống vốn để sản xuất. Đất đai được quay vòng quanh năm, hết trồng lúa lại
đến trồng màu. Các gò, bãi được tận dụng trồng ngô, khoai, rau đậu. Các vùng
đất trồng lúa khó khăn được chuyển đổi, vùng cao thì chuyển sang trồng màu,
vùng trũng thấp thì chuyển sang nuôi trồng thuỷ, hải sản. Các trục đường liên
thôn, liên xã được phủ kín phi lao, bạch đàn, xà cừ… Các hồ ao, sông ngòi, đầm
bãi được tận dụng để nuôi cá, chăn thả vịt.
Ngoài ra, Nam Điền còn chủ động mở mang ngành
nghề, tiến ra mọi hướng để tạo công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập. Gạo Nhà nước
phân phối không đủ, không kịp thì tăng gia sản xuất, tìm nguồn để trao đổi hoặc
mua lương thực, tiến ra biển để khai thác thuỷ hải sản, đốt gạch, nung vôi,
kinh doanh dịch vụ, liên doanh liên kết với các ngành, các lĩnh vực để tạo ra
sức mạnh tổng hợp. Nhờ sự chăm chỉ cần cù của mỗi người dân, Nam Điền đã từng
bước khắc phục được nạn thiếu lương thực, đứt bữa những ngày giáp hạt. Lương
thực sản xuất ra không những đủ ăn mà còn để phục vụ chăn nuôi. Đàn lợn, đàn
trâu bò có tới hàng ngàn con; đàn vịt, đàn gà lên tới hàng vạn con. Kinh tế
biển phát triển mạnh, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của xã. Giá trị và sản
lượng nuôi trồng thủy hải sản ngày càng cao, đóng góp phần lớn vào tổng thu
nhập GDP của toàn xã.
Từ một xã mới thành lập vô cùng khó khăn, thiếu
thốn, cơ sở hạ tầng chưa có gì, nhân dân thiếu ăn quanh năm, đến nay Nam Điền
đã vươn lên và có bước phát triển vượt bậc, xây dựng được hệ thống cơ sở hạ
tầng tương đối đồng bộ phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh. Cuộc sống nhân
dân ổn định, thu nhập bình quân đầu người tăng lên và có nhiều gia đình đã trở
thành hộ khá, hộ giàu. Đời sống văn hoá, tinh thần cũng nhờ đó mà được cải
thiện đáng kể. Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được quan tâm
đầu tư phát triển. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường, tình trạng học
sinh bỏ học hầu như không còn. Nhiều thế hệ học sinh đã trưởng thành và làm
rạng danh cho quê hương.
Về lại Nam Điền hôm nay, chúng ta được tận mắt
chứng kiến những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân trong xã đã dày công tạo
dựng. Đó là những con đường trải nhựa, đổ bê tông, rải đá được quy hoạch vuông
vức, chạy dài bằng phẳng. Hệ thống điện đưa ánh sáng đến từng nhà, trường học
cao tầng, trạm y tế, nhà văn hoá thôn, xóm nhà ở của nhân dân kiên cố khang
trang... Mặc dù đến nay Nam Điền vẫn còn là một xã nghèo, cơ sở vật chất còn
nhiều thiếu thốn nhưng bằng bàn tay và khối óc, tinh thần lao động cần cù, sáng
tạo, người dân Nam Điền đã và đang khai thác tốt các tiềm năng sẵn có của địa
phương phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, từng bước xoá đi ký ức về
những năm tháng đói nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương
ngày thêm giàu đẹp, làng xóm trù phú, yên vui thanh bình.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới, Nam Điền đang nỗ
lực để cùng với cả huyện và nhân dân cả nước phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI
nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với những chủ trương, định hướng lớn của Đảng; nhất là Nghị quyết chuyên đề số
09- NQ/TU ngày 25/7/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá XVIII) về xây
dựng khu kinh tế Ninh Cơ. Với những thành tích Đảng bộ, nhân dân Nam Điền đã
đạt được, những bài học kinh nghiệm rút ra sau 35 năm xây dựng và trưởng thành,
Nam Điền đang như một con tàu sẵn sàng rẽ sóng ra khơi, đưa nhân dân tới bến bờ
phồn vinh hạnh phúc./.
PHỤ LỤC
I- CÁC NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI
ĐẢNG.
STT
|
Đại hội
|
Nhiệm kỳ
|
Số lượng UV BCH
|
Số lượng đảng viên
|
Chi bộ
|
1.
|
I
|
7/1977 –
2/1979
|
3
|
19
|
1
|
2.
|
II
|
2/1979 –
10/1982
|
7
|
35
|
5
|
3.
|
III
|
10/1982 –
5/1984
|
7
|
52
|
10
|
4.
|
IV
|
5/1984 –
9/1986
|
9
|
70
|
11
|
5.
|
V
|
9/1986 –
10/1988
|
9
|
69
|
8
|
6.
|
VI
|
10/1988 –
9/1991
|
11
|
67
|
9
|
7.
|
VII
|
9/1991 –
6/1994
|
9
|
67
|
8
|
8.
|
VIII
|
6/1994 –
2/1996
|
9
|
64
|
8
|
9.
|
IX
|
2/1996 –
9/2000
|
9
|
66
|
8
|
10.
|
X
|
9/2000 –
7/2005
|
9
|
77
|
8
|
11.
|
XI
|
7/2005 –
5/2010
|
9
|
102
|
11
|
12.
|
XII
|
5/2010 – 2015
|
13
|
124
|
14
|
II- DANH SÁCH BÍ THƯ CHI
BỘ, BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1.
|
Đ/c Lại Ngọc Cận
|
7/1977 – 3/1978
|
Chi bộ HTX xã Nghĩa Điền
|
2.
|
Đ/c Lại Ngọc Cận
|
4/1978 – 2/1979
|
Chi bộ xã Nam Điền
|
3.
|
Đ/c Lại Ngọc Cận
|
2/1979 – 7/1979
|
Đảng bộ xã Nam Điền
|
4.
|
Đ/c Lê Chuẩn
|
7/1979 – 10/1982
|
|
5.
|
Đ/c Vũ Văn Giáo
|
10/1982 – 11/1986
|
|
6.
|
Đ/c Phạm Văn Tý
|
11/1986 – 9/1988
|
|
7.
|
Đ/c Trần Quốc Tư
|
9/1988 – 9/1991
|
|
8.
|
Đ/c Trần Thành
Dung
|
9/1991 – 2/1998
|
|
9.
|
Đ/c Đoàn Ngọc Hà
|
2/1998 – 10/2000
|
|
10.
|
Đ/c Lại Cao Đỉnh
|
10/2000 – 6/2004
|
|
11.
|
Đ/c Trần Xuân Đại
|
6/2004 – 7/2009
|
|
12.
|
Đ/c Bùi Văn Khương
|
7/2009 – 5/2010
|
|
13.
|
Đ/c Lại Cao Đỉnh
|
6/2010
|
|
III- DANH SÁCH PHÓ BÍ THƯ
- ỦY VIÊN THƯỜNG VỤ THƯỜNG TRỰC ĐẢNG UỶ QUA CÁC THỜI KỲ.
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi chú
|
1
|
Đ/c Trần Văn
Thai
|
5/1977 – 3/1979
|
Phó Bí thư chi
bộ
|
2
|
Đ/c Trần Văn
Thai
|
3/1979 –
7/1979
|
Phó Bí thư
Đảng bộ
|
3
|
Đ/c Lại Ngọc
Cận
|
7/1979 –
8/1980
|
|
4
|
Đ/c Lê Ngọc
Thành
|
10/1982 –
4/1984
|
|
5
|
Đ/c Nguyễn Thế
Khang
|
4/1984 –
5/1987
|
UVTV - TT Đảng
|
6
|
Đ/c Đoàn Công
Thạo
|
5/1987 –
02/1996
|
UVTV - TT Đảng
|
7
|
Đ/c Trần Xuân
Lệ
|
02/1996 –
4/1998
|
UVTV - TT Đảng
|
8
|
Đ/c Lại Cao
Đỉnh
|
4/1998 –
9/2000
|
|
9
|
Đ/c Trịnh Văn
Miết
|
9/2000 – 6/2004
|
UVTV - TT Đảng
|
10
|
Đ/c Trịnh Văn
Miết
|
6/2004 –
5/2010
|
|
11
|
Đ/c Phạm Văn
Dương
|
6/2010
|
|
IV- DANH SÁCH CHỦ TỊCH UBND XÃ QUA CÁC THỜI KỲ.
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi chú
|
1
|
Đ/c Trần Văn
Thai
|
5/1978 –
6/1982
|
|
2
|
Đ/c Hoàng Quốc
Thịnh
|
6/1982 –
5/1984
|
|
3
|
Đ/c Đoàn
Văn Hiệt
|
5/1984 –
5/1987
|
|
4
|
Đ/c Nguyễn Thế
Khang
|
5/1987 –
1/1998
|
|
5
|
Đ/c Trần Đình
Cư
|
1/1998 –
4/1998
|
Quyền
Chủ tịch
|
6
|
Đ/c Trần Xuân
Đại
|
4/1998 –
6/2004
|
|
7
|
Đ/c Lại Cao
Đỉnh
|
6/2004 – 7/2010
|
|
8
|
Đ/c Hoàng
Thành Triệu
|
8/2010
|
|
V- DANH SÁCH CHỦ NHIỆM HTX NN QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Trần Văn Thai
|
2/1977 –
8/1978
|
|
2
|
Đ/c Nguyễn Văn Phức
|
8/1978 –
10/1983
|
|
3
|
Đ/c Lê Ngọc Minh
|
10/1983 –
12/1984
|
|
4
|
Đ/c Đoàn Văn Hợi
|
12/1984 –
2/1986
|
Quyền
Chủ nhiệm
|
5
|
Đ/c Nguyễn Thế Khang
|
2/1986 –
11/1986
|
|
6
|
Đ/c Trần Quốc Tư
|
11/1986 –
9/1988
|
|
7
|
Đ/c Nguyễn Xuân Thuỷ
|
9/1988 –
11/1990
|
|
8
|
Đ/c Trần Thành
Dung
|
11/1990 –
9/1991
|
|
9
|
Đ/c Nguyễn Công Hoan
|
1/1992 –
12/1996
|
|
10
|
Đ/c Đoàn Công Thạo
|
1/1997 –
8/2003
|
|
11
|
Đ/c Vũ Ngọc Tu
|
8/2003
|
|
VI- DANH SÁCH CHỦ TỊCH ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC XÃ QUA CÁC
THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Nguyễn Văn Lộc
|
1978 – 1982
|
|
2
|
Đ/c Trần Văn Lượng
|
1982 – 1988
|
|
3
|
Đ/c Trần Giao Thiệp
|
1988 – 1990
|
|
4
|
Đ/c Trần Xuân Lệ
|
1990 – 4/1998
|
|
5
|
Đ/c Nguyễn Công Hoan
|
4/1998 –
8/2003
|
|
6
|
Đ/c Đoàn Công Thạo
|
9/2003
|
|
VII- DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI CỰU CHIẾN BINH XÃ QUA CÁC
THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Trần Xuân Lệ
|
4/1990 –
2/1996
|
20/8/1990 Đại hội lần thứ nhất
|
2
|
Đ/c Trần Xuân Đại
|
3/1996 – 4/1998
|
|
3
|
Đ/c Trần Xuân Lệ
|
5/1998 –
1/2007
|
|
4
|
Đ/c Trần Ngọc Hiệp
|
2/2007
|
|
VIII- DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI PHỤ NỮ XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Trịnh Thị Bồng
|
1978 – 1979
|
|
2
|
Đ/c Nguyễn Thị Nhạn
|
1979 – 1981
|
|
3
|
Đ/c Đặng Thị Thận
|
1982 – 1985
|
|
4
|
Đ/c Phạm Thị Xuyến
|
1985 – 1987
|
|
5
|
Đ/c Nguyễn Thị Hằng
|
1987 – 1991
|
|
6
|
Đ/c Trần Thị Mỡi
|
1992 – 1997
|
|
7
|
Đ/c Đặng Thị Thận
|
1997 – 2006
|
|
8
|
Đ/c Vũ Thị Khuy
|
6/2006
|
|
IX- DANH SÁCH BÍ THƯ ĐOÀN XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Vũ Văn Giáo
|
1978 – 3/1980
|
|
2
|
Đ/c Vũ Ngọc Huỳnh
|
3/1980 –
5/1980
|
Quyền Bí thư Đoàn xã
|
3
|
Đ/c Vũ Ngọc Huỳnh
|
5/1980 –
6/1986
|
|
4
|
Đ/c Phạm Thị Thọ
|
6/1986 –
12/1988
|
|
5
|
Đ/c Lã Mạnh Hà
|
12/1988 –
9/1990
|
|
6
|
Đ/c Trần Văn Quynh
|
9/1990 –
4/1994
|
|
7
|
Đ/c Bùi Đức Hạnh
|
4/1994 –
10/1998
|
|
8
|
Đ/c Trần Đình Luyện
|
10/1998 –
3/2001
|
|
9
|
Đ/c Phạm Văn Phê
|
3/2001 –
5/2004
|
|
10
|
Đ/c Trần Đình Luyện
|
5/2004 –
6/2006
|
|
11
|
Đ/c Phạm Văn Phê
|
7/2006
|
|
X- DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI NÔNG DÂN XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
Họ và tên
|
Thời kỳ
|
Ghi
chú
|
1
|
Đ/c Nguyễn Văn Lộc
|
1978 – 1984
|
|
2
|
Đ/c Lương Ngọc Hoàn
|
1984 – 1988
|
|
3
|
Đ/c Trần Văn Rật
|
1988 – 1993
|
|
4
|
Đ/c Trần Đình Cư
|
1993 – 1994
|
|
5
|
Đ/c Trần Quốc Chính
|
1994 – 4/1996
|
|
6
|
Đ/c Nguyễn Văn Lâm
|
5/1996 – 2001
|
|
7
|
Đ/c Trần Thành Dung
|
2002 đến .....
|
|
Số dân đến xây dựng vùng kinh tế mới Nam Điền từ năm
1981- 1984.
Năm
|
1981
|
1982
|
1983
|
1984
|
Số hộ
|
35
|
416
|
183
|
156
|
Số người
|
205
|
2.632
|
842
|
1.697
|
Số lao động
|
57
|
814
|
556
|
412
|
Diện tích, năng suất và sản lượng lúa từ năm 1986- 1990
Năm
|
1986
|
1987
|
1988
|
1989
|
1990
|
Diện tích cả năm (ha)
|
133,6
|
159,7
|
180,7
|
233,2
|
263
|
Năng suất (tạ/ha/năm)
|
28,3
|
26,3
|
26,8
|
35,5
|
43,3
|
Năm
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
Diện tích cả năm (ha)
|
366
|
381
|
396
|
423
|
396
|
Năng suất (tạ/ha/năm)
|
47,5
|
48,8
|
53,4
|
56,7
|
67,6
|